1. Thời
tiết Âu Châu vào tháng 5 rất đẹp và bầu trời của nước Ý thường được cho là “xanh
nhất châu Âu”. Thế nhưng hôm chúng tôi về lại Milano thì trời mưa tầm tã và những
ngày sau, rả rích. Màu trời xám xịt, u ám như giữa mùa thu. Mệt và buồn,
hai ngày đầu tôi chỉ nằm nhà, và chỉ ra ngoài khi thật cần thiết.
Cũng
như mọi lần, mỗi khi về lại Ý, việc đầu tiên của chúng tôi là đến nghĩa trang
Lambrate để thăm mộ của mẹ Elena. Gọi là “mộ” nhưng thực ra chỉ là một trong rất
nhiều chiếc hộc nhỏ đựng tro của bà hoả thiêu hơn mười năm trước.
Buổi
sáng đó không
mưa nhưng bầu trời vẫn còn u ám.
Gió se se lạnh.
Elena cẩn thận lau bụi
trước khung ảnh của mẹ nàng rồi thắp một nén nhang.
Đứng một lát rồi chúng
tôi đem bó hoa ra rửa bụi. Vắng chỉ mấy phút, nhưng khi trở lại chúng tôi thấy đã
có một bó hoa khác đã được đặt vào bình. Nhìn quanh, chẳng thấy ai quen. Phải
đi quanh một đỗi thì Elena mới nhìn thấy ông cụ, lúc trước ở gần nhà nàng. Vụt
chạy đến, hai người ôm lấy nhau, mừng mừng tủi tủi. Ông nói vừa đi thăm mộ con
gái, bạn học cũ của Elena, đã mất nhiều năm trước vì bệnh ung thư máu. Thấy
bình hoa trống trước mộ mẹ nàng, tưởng bọn trẻ phá phách, ông đã chia phần hoa và
cắm vào bình để bà bớt trống trải.
Hai người nhắc lại chuyện
xưa, nét mặt ai nấy đều buồn. Lát sau thì ông cụ chia tay.
Chờ
cho
nhang tàn, chúng tôi cũng chuẩn bị ra về. Khi đi ra gần cổng, chúng tôi thấy một
ông lão khác đang loay hoay với một chiếc thang. Tôi hỏi ông có cần gì không
thì ông nhờ tôi leo lên để cắm hoa cho vợ mình, mới mất, nhưng hộc tro của bà bị
đặt trên cao.
Trông còn tráng kiện nhưng ông cho biết là năm
nay đã 95 tuổi! Ông còn kể là đời mình đã trải qua mấy cuộc chiến tranh: Liên
Xô, Albania, Hy lạp. Nhiều lần suýt chết nhưng các “Thánh” đã bảo vệ ông. Ông kể, là con chiên
ngoan đạo nên lúc nào trong người ông cũng mang theo tranh các Thánh do toà
thánh Vatican in. Những lúc nguy khốn, ông đã được các ngài giúp đỡ cả vật chất
lẫn tinh thần. Tuần nào ông cũng đến thăm mộ vợ. Ngày
xưa bà là người cung cấp cho ông nhiều tranh Thánh. Thời chiến tranh và bị lạc ở
Liên Xô, nhờ những bức tranh này mà ông được một nông dân Nga giúp đỡ và cung cấp
thực phẩm. Nông dân này theo đạo Thiên Chúa và tranh Thánh ở Nga thời đó rất
quý và hiếm.
Do chiến cuộc, không học hành gì nhiều, trình
độ chỉ lớp 5 tiểu học. Sau khi giải ngũ, tuy phải làm nhiều nghề để sống nhưng nhờ
tính năng động và có nhiều sáng kiến, cuối cùng ông xây dựng được một nhà máy sản
xuất giày, có trên 100 công nhân và điều hành cho đến lúc về hưu.
Tôi nhìn ông, khâm phục.
Đúng là lớp người thuộc thế hệ vàng
của nước Ý, sau những năm tháng khó khăn và loạn lạc họ đã xắn tay áo, cật lực
làm việc để thoát khỏi cảnh nghèo và gầy dựng lại đất nước .
Ngay từ thuở nhỏ tôi đã
thích nói chuyện với người già. Ở họ tôi học được rất nhiều điều mà các bạn
cùng tuổi cho là vớ vẩn. Lúc chia tay tôi dặn ông mỗi lần đến nên nhờ người nào
thay hoa cho vợ chứ đừng leo thang, sợ té ngã. Ông gật đầu nắm chặt lấy tay tôi
để nói cảm ơn rồi chúc vợ chồng tôi luôn gặp bình an và may mắn.
Trên đường về, tôi và
Elena cứ nhắc mãi về tình yêu son sắt và bền vững của hai ông bà. Thật khác với
lớp trẻ hiện nay, lấy nhau chưa đầy 2 năm đã ly dị. Đây đúng là một nét đẹp của
giáo dục Ý ảnh hưởng từ nền văn minh Thiên Chúa Giáo.
2.
Giải
quyết xong một số việc nhà tôi gọi điện thăm Thiện. Chuyến về Ý lần này tôi có
hai chương trình thăm bạn bè nhưng chưa quyết định: Qua Dresden (Đức) thăm bạn
thơ Nguyễn Đức Minh, hay qua thăm bác sĩ Nguyễn Chí Thiện ở Paris.
Thiện nói gọi cả Minh cùng qua đi: “Tao rảnh, có thời gian để tha hồ tán dóc và
đi chơi.”
Buổi tối gọi điện rủ
Minh nhưng rất tiếc Minh không qua Paris được. Anh nhắc tôi gửi 10 quyển tiểu
thuyết “Bàn tay nhỏ dưới mưa” để phát
hành qua bạn bè và gây quỹ.
Sáng thứ bảy tôi và
Elena có hẹn với Trần Minh Châu, chủ tịch Hội Tương Trợ Ý Việt, và các bạn. Tôi đã ký tặng hội 10 quyển BTNDM
(Ninh ở Ivrea cũng đã mang trước 5 quyển) để bán gây quỹ cấp phát học bỗng cho
các em nghèo tại Việt Nam. Các bạn Châu, Lến, Hà,
Vũ... đã sốt sắng ủng hộ.
3.
Đến Paris, trời trong và đẹp. Thật là may mắn. Thiện
nói mấy ngày trước Paris cũng mưa và lạnh.
Vào nhà Thiện. Mở cửa sổ
nhìn xuống vườn, sườn dốc một màu xanh, thoai thoải. Chợt nhớ những đêm đốt lửa
sưởi ấm mùa đông ở Đà Lạt, trong lễ ra mắt giới thiệu tập thơ của nhà thơ Phạm
Cao Hoàng, đang sống ở nước ngoài và đến lúc ấy tôi chưa từng gặp mặt.
Đây là căn nhà của Thiện. Là nơi tổ
chức “summit” họp mặt bạn bè cũ một thời du học, nay tản mạn khắp Âu Châu: Thuỵ
Sĩ, Pháp, Ý, Bỉ, Đức, Canada, Mỹ...
Nhà Thiện cũng là nơi hội tụ của văn nhân và
nghệ sĩ nổi tiếng trong và ngoài nước mỗi khi họ có dịp ghé đến Paris. Là bác
sĩ y khoa nhưng Thiện rất am hiểu nghệ thuật và yêu văn nghệ sĩ. Bước vào nhà
là nhìn thấy ngay những tủ sách đầy nhóc và những bức tranh của các hoạ sĩ tên
tuổi trên tường: Bửu Ý, Đinh Cường. Phía trên lò sưởi còn có chân dung Trịnh
Công Sơn do Công Thế Cường vẽ...
Căn nhà của anh đã có nhiều
người từng ghé lại: Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Hoạ sĩ Đinh Cường, Hoạ sĩ Trịnh
Cung, Nhà nghiên cứu Bửu Chỉ; Những nhà văn, phê bình nhà nghiên cứu tên tuổi
như Đặng Tiến, Nguyễn Xuân Hoàng, Bửu Ý...
Hiếu khách, thân tình,
Thiện dành thời gian đưa đón, hướng dẫn đi thăm thành phố, thăm viếng những khu
di tích. Tuy sống “độc thân” nhưng Thiện khá chu đáo, thu xếp nơi ăn chốn ở, có
khi đến vài chục người...
Vị trí nhà không xa
trung tâm thành phố là bao nhưng nơi đây có một màu xanh bắt mắt, một sự yên
tĩnh đến lạ lùng. Tuy sống một mình nhưng căn nhà khá ngăn nắp và sạch sẽ. Thì
ra từ ba năm có cô cháu gái Bảo Châu qua Pháp làm việc. Cô bé vui tính, chăm chỉ
nên cuối tuần quét dọn, làm vệ sinh và tranh thủ nấu mấy món ăn khoai khẩu để
trong tủ lạnh để cậu Thiện ăn dần.
Khi nghe
tôi hỏi, đời sống phương Tây bận rộn thế này sao bạn lại có nhiều thời gian
rảnh rổi để đưa đón, tiếp đãi nhiều người..., Thiện đáp: “Trước đây cũng khá bận,
nhưng từ vài năm nay thì cũng do mầy mà tao rảnh rổi!” Nhìn ánh mắt dọ hỏi của
tôi, Thiện cười và tiếp: “Khi đọc truyện ngắn “Một áng mây bay”
của mầy, câu “Một người thông
minh sao lại chọn một lối sống không mấy thông minh như thế?” và “Bận rộn, tao chỉ nhìn mà không thấy”
đã làm tao ấn tượng nên sau đó phải thu xếp lại công việc.”
Anh còn nhắc thêm lời của
một người bạn là nghệ sĩ Camille Huyền: “Bận
một ngày nhưng mất đến hai ngày; mất ngày đó đã đành nhưng còn mất một ngày để
vui chơi. Lỗ nặng!”
Từ đó mỗi tuần Thiện chỉ
đến phòng khám có ba ngày rưỡi, còn lại anh dành thời gian chơi với bạn bè, tiếp
xúc giới văn nghệ, đọc sách, nhìn trời đất, chăm sóc vườn tược, cây cỏ và... nhìn
mây bay, suy nghĩ chuyện đời.
4.
Vừa đến nhà, bỏ hành lý, tôi lấy quyển “Nghệ
thuật Pham văn Hạng” và mấy số Quán Văn đem ra tặng bạn. Tôi rất vui vì thấy Thiện
thích. Lật qua, anh nói sẽ đọc kỹ và giới thiệu với bạn bè Pháp về ông bạn điêu
khắc đã từng nghe tên này. Tôi cũng đưa cho bạn 6 quyển tiểu thuyết “Bàn
tay nhỏ dưới mưa”.
Chúng tôi đáp “không”
khi Thiện hỏi có cần nghỉ ngơi, nên anh bảo lên xe và chở đến Giverny, nơi có
căn nhà vườn của Claude Monet, một trong những hoạ sĩ thành lập trường phái ấn
tượng (impressionism). Thị trấn cách Paris chừng 75 km. Elena rất vui vì tuy đến
Paris nhiều lần nhưng vì phương tiện công cộng không mấy thuận tiện nên chưa có
dịp đến đây.
Hàn Lâm Viện
Mỹ Thuật của Pháp hiện là chủ nhân và quản lý căn nhà vườn- bảo
tàng. Giá vé vào cửa 9 Euro/người. Căn nhà được giữ sạch sẽ, nhà bếp thân thiện
sơn màu xanh da trời... các dụng cụ bằng đồng ấm áp.
Trong
phòng khách có chưng bày tượng và những bức tranh nổi tiếng của ông. Phòng ngủ
của vợ chồng ông, giường chiếu, các chậu hoa vẫn y nguyên như khi họ còn còn sống.
Vườn của
Monet ở Giverny là một trong những vườn
hoa đẹp nhất thế giới.Vườn được chia làm 2 phần: một Vườn hoa và một Vườn Ao giống
như những Vườn Nhật trong tranh ảnh mà Monet rất thích.
Trong Vườn hoa được trồng
nhiều bông hoa chia nhau nở từ tháng 4 đến tháng 10. Hoa không thành hàng mà trồng xen kẽ để tạo một bức tranh màu sắc
tuyệt vời, rất lạ mắt.
Trong Vườn Nhật có một ao lớn, xung quanh có
những con đường nhỏ quanh co uốn lượn, trồng rất nhiều cây cỏ Á Châu rất đẹp và
thơ mộng. Nổi tiếng nhất là bông súng dưới ao, xung quanh ao có nhiều cây liễu
rủ và đặc biệt một cây cầu Nhật bao phủ bởi nhiều dàn đậu tía. Khách dạo xem gặp
rất nhiều cầu, núp bóng dưới những cây liễu rủ hay lấp loáng sau các lùm tre.
Được đặc biệt chú ý là chiếc cầu vồng Nhật Bản màu lục hòa mình với những cành
hoa glycine (dây đậu tía) tim tím nổi bật trên nền xanh cây lá xung quanh.
Không khí nơi đây thật thanh bình. Khách đi dạo sẽ tưởng
mình đang chìm trong một thế giới khác
5.
Mạng lưới xe điện ngầm
(metro) ở Paris rất tiện lợi, phủ khắp thành phố. Buổi sáng Thiện đi làm nên cả
ngày tôi và Elena cầm bản đồ trên tay và “làm du khách”. Điểm đến đầu tiên trong ngày là toà tháp biểu tượng của kinh đô ánh sáng: Tháp Eiffel.
Có lẽ đây là nơi được chụp
hình nhiều nhất thế giới. Khi chúng tôi đến quảng trường Troccadero, có rất nhiều
nhiều pullman chở du khách, học sinh đến đây. Bước mấy bậc tam cấp để lên Palaise
de Chaillot, có hai vòng cung và các bức
tượng mạ vàng. Nhánh bên phải có nhà bảo
tàng về con người (Musée de l’Homme): Mặt trước có khắc hàng chữ làm tôi rất ấn
tượng: Mọi người sinh ra đều thở, chỉ có văn hoá mới làm người này khác người
kia.
Đây là nơi nhìn rõ toàn cảnh, và trước mặt tôi sừng sững toà
tháp Eiffel.
Elena
nói, khi viếng thăm Tháp Eiffel nhà phát minh người Mỹ Thomas Edison đã viết
vào sổ vàng lưu niệm những lời lẽ thật trân trọng “Xin gửi tới Ngài Gustave
Eiffel, Công Trình Sư dũng cảm đã xây dựng nên mô hình khổng lồ và kỳ diệu của
công nghệ hiện đại, lòng kính trọng và sự ngưỡng mộ cao nhất của tôi”. Sự trân
trọng đó hoàn toàn xứng đáng với một con người không chỉ tạo ra một Tháp Eiffel
huyền thoại, mà còn là đồng tác giả của Tượng Nữ Thần Tự Do ở Mỹ, và là tác giả
của hàng chục công trình sắt thép khổng lồ nổi tiếng khác trên khắp thế giới,
trong đó có cầu Long Biên ở Hà nội, cầu Tràng Tiền ở Huế và Nhà Bưu Điện Sài Gòn.
Gustave
Eiffel đã kiêu hãnh lấy tên mình để đặt cho ngọn tháp, nhưng về sau ân hận vì chứng
kiến đám đông nườm nượp kéo đến chiêm ngưỡng tháp Eiffel. Ông đã phải thốt lên:
"Tôi phát ghen, vì nó còn nổi tiếng hơn tôi!". Huyền thoại đó đã cản
trở công chúng biết đến ông như một kỹ sư và nhà nghiên cứu tài ba.
Lịch
sử kể rằng, việc xây dựng Tháp lúc đầu bị công chúng phản đối dữ dội, bị coi là
chướng mắt, kỳ quái, phá hỏng vẻ đẹp truyền thống cổ kính của Paris. Một trong
những người phản đối mạnh nhất là nhà văn Guy de Maupassant. Ông này tuyên bố sẽ
thường xuyên leo lên Tháp Eiffel để ăn trưa, làm mọi người sửng sốt. Khi được hỏi
tại sao, Maupassant trả lời: "Vì đó là chỗ tốt nhất để không nhìn thấy nó". Thế nhưng giờ đây thì người Pháp rất tự hào vì nó: "Đến
Paris mà chưa đến Tháp Eiffel thì cũng như chưa đến!".
Trong lịch sử chỉ có một kẻ muốn
đánh sập Tháp
Eiffel, đó là Adolf Hitler!
Tháng 08-1944, liệu sẽ phải rút khỏi Paris vì các mũi tấn công của đồng
minh, Hitler ra lệnh cho Dietrich von Choltitz, tổng chỉ huy quân đội Đức tại
Paris:"Không được để Paris rơi vào tay kẻ thù, trừ khi nó đã hoàn toàn trở
thành một đống gạch vụn!". Nhưng không hiểu sao, Choltitz không tuân lệnh sếp,
rút lui khỏi Paris mà không phá huỷ. Tại sao? Có nhiều giải thích trái chiều. Đến
nay vẫn là một dấu hỏi còn bỏ ngỏ của lịch sử.
Nghĩa trang Père-Lachaise (Cimetière du
Père-Lachaise) là nghĩa trang lớn
nhất ở của thành phố Paris và là một trong những nghĩa trang nổi tiếng nhất thế
giới. Các ngôi mộ quý tộc và danh nhân. Nếu khi sống người ta ăn mặc nhiều kiểu
cọ thì lúc chết cũng có những ngôi mộ không giống nhau. Đủ hình. Đủ kiểu. Những
pho tượng tiếc thương. Cầu nguyện. Người quỳ gối, kẻ ngửa mặt nhìn trời. Mộ đơn
độc. Mộ gia đình. Những nhà nguyện.
Đây là một bảo tàng về nghệ thuật
và một trong những địa điểm thu hút
khá nhiều khách du lịch tại Paris. Hằng năm hàng trăm ngàn lượt người đã
đến đây để thăm viếng những ngôi mộ có từ 200 năm qua và mộ các danh nhân. Có
thể kể tên một vài nhân vật tiêu biểu:
Gần 30 năm rồi tôi mới có dịp quay lại nơi đây. Thuở đó
mình chỉ là một chàng trai với nhiều mơ ước mà giờ đây mái tóc đã điểm sương. Nhìn
lại, lòng bỗng bồi hồi. Xúc động.
Dạo
quanh nhà thờ dưới ánh nắng không gay gắt lắm để ghi lại vài tấm hình kỷ niệm rồi
chúng tôi thả bộ về phía bờ sông. Khi qua chiếc cầu đá Pont de l’Archevêque...
tôi nhìn thấy có rất nhiều những ổ khoá khoá chặt trên thành cầu. Đó là những lời
hẹn thể sắt son để tình yêu bền chặt. Bây giờ đã thành “mode”, mô phỏng theo
hai cuốn phim của Ý: “Tre metri sopra il cielo” và
phim “Ho voglia di te ”
Sau khi phim “Ho
voglia di te ” được chiếu ở Ý, nhiều cặp tình nhân đã phỏng theo nhân vật
trong phim và đem ổ khoá lên cầu Milvio ở Roma, quấn dây
xích vào chân cột đèn ở giữa cầu,
khóa ổ khóa lại rồi quay lưng ném
chìa khoá xuống sông Tevere. Sức nặng của hàng vạn ổ khoá sau đó đã làm gãy trụ
đèn và gây ra nhiều tranh luận trên chính trường Ý: Người muốn giữ ổ khoá để thu hút du khách
tình yêu, kẻ lo sợ sẽ làm sụp đổ cây cầu lịch sử, xây dựng từ 2000 năm trước!!!
Những ổ khóa ấy được gọi là amorchetto, một cái tên rất sáng tạo, ghép từ tiếng Ý: amore (tình yêu) và luchetto (ổ khóa) để thay cho chữ luchetto d´amore quá dài.
Từ Ý, trào lưu này lan tỏa ra khắp châu Âu và
thế giới, đồng thời cũng đẻ ra lắm “dị bản”. Xin nhắc đến cây cầu ổ khoá Hohenzollern tại Cologne Đức hay những chiếc khóa tình yêu ở
Moscow, ở Anh, Ba Lan... Mỗi địa danh gắn liền với một câu chuyện từ xa xưa tới hiện
đại.
Trào lưu ổ khóa cũng tràn sang châu Á: Từ Trung Quốc đến Nhật Bản, Hàn Quốc những
chiếc khóa tình yêu với đủ màu sắc, kích thước và cách khóa. Ở Việt Nam người
ta cũng thấy nhiều ổ khoá trên cầu Long Biên (Hà Nội), cầu Tràng
Tiền (Huế), cầu Thuận Phước (Đà Nẵng)...
Với những người yêu nhau, chiếc khóa tình yêu được
khóa lại và treo vĩnh viễn trên một cây cầu, minh chứng cho tình yêu mãi mãi. Đằng
sau mỗi ổ khóa ấy luôn có một câu chuyện tình lãng mạn và lời thề vĩnh cửu để
hai người yêu nhau có thể tay trong tay, dắt tay nhau đi nốt quãng đường còn lại
trên cõi trần gian.
Có
cung, có cầu và những kẻ trục lợi chuyện tình lãng mạn cũng không hề thiếu! Nhiều người bán
khoá ngồi quanh. Dịch vụ. Giá khá đắt. Chúng tôi không mua khoá nhưng Elena lấy
trong túi xách một giải lụa màu cam. Cô cột chặt vào thành cầu và cẩn thận thắt
thành 7 nốt gút. Tình yêu của chúng tôi sẽ thử thách gió mưa, băng tuyết, và về
sau khi có dịp quay lại, dải lụa có còn không? Có lẽ không! Nhưng tôi tin
là lúc đó chúng tôi sẽ thay bằng một dải lụa khác. Tình yêu
lúc nào cũng phải biết “cảm thông”, “chia sẻ” và “làm mới” thì mới tránh được
những xung đột, nhàm chán và đổ vỡ.
Điện Pantheon: Ở phía trước ngôi điện có khắc dòng chữ “Aux grands hommes, la patrie reconnaissante” (Tổ quốc nhớ ơn những con người
vĩ đại): là nơi chôn cất và tôn vinh những nhân vật lịch sử và những người
đã làm rạng danh cho nước Pháp như Voltair, Victor Hugo, Pieer
Curie, Andre Malreau…
Thế
nhưng để vào thăm phải mua vé vào cửa và giá khá cao. Đành rằng những sinh hoạt
văn hoá đều có chi phí và cần kinh phí trùng tu, bảo quản... nhưng người khắp
nơi ngưỡng mộ và đến viếng danh nhân nước mình mà buộc họ phải trả tiền cao... tôi
thấy cách làm này dường như chưa hay lắm.
Cạnh
điện có phân khoa Luật: Mặt trước có khắc nổi hàng chữ: Liberté, Égalité, Fraternité. Đó là thông điệp tự do bác ái bình đẳng
mà nước Pháp đã gửi đi từ cuộc cách mạng 1789 và giá trị tinh thần to lớn của
nó đã vượt biên giới, được nhiều quốc gia chấp nhận và hiện nay là nền tảng của
các chế độ Tây phương.
Trên đường về chúng tôi đi
ngang qua Đại học Sorbonne (Nhân Văn). Tò mò tôi đứng lại ngắm dịch vụ mát sa chân
cho du khách mệt mỏi sau nhiều giờ đi dạo.
6.
Khi chúng tôi về đến nhà
thì Thiện vẫn còn ở phòng mạch. Cô cháu gái cũng chưa về nên nằm nghỉ một lát rồi
Elena xuống bếp chuẩn bị bữa ăn chiều. Một đĩa spaghetti đơn giản và một ít rau
trộn dấm dầu ô-liu chế biến theo kiểu Ý nhưng Thiện nói rất
ngon, có lẽ do lạ miệng.
Ăn
xong thì Minh ở Đức gọi điện sang, hẹn lần tới phải gặp nhau, nếu không Paris
thì cũng phải Dresden.
Chiều hôm đó Paris không
nóng. Đã hơn 8h tối mà bầu trời vẫn còn sáng. Bên chiếc bàn dài đặt ở giữa vườn
tôi và Thiện ngồi uống rượu vang và ôn chuyện cũ. Chúng tôi kể cho nhau nghe
bao chuyện thăng trầm, từ công việc đến chuyện riêng tư. Đêm nay anh mở lòng kể
nhiều chuyện về mình. Tôi im lặng lắng nghe.
Trong ánh sáng lờ mờ,
tôi quan sát bạn. Khuôn mặt Thiện hiền từ, tánh tình anh vui nhộn, nhưng nhìn kỹ
thì phảng phất có nét buồn.
Bốn mươi năm, chúng tôi
đã quen nhau. Gặp nhau cười cười nói nói, trao đổi công việc, thoáng lướt qua
chuyện văn chương... nhưng có lẽ đây mới là lần đầu tôi và Thiện có thời gian gần
tuần lễ ở gần nhau, chia sẻ với nhau những tâm sự mà chỉ khi thân tình lắm người
ta mới nắm tay nhau để cùng đi vào những ngõ ngách ẩn khuất.
7.
Sáng hôm sau Thiện đưa
chúng tôi thăm cung điện Versailles, nơi ở của các vua Pháp Louis XIII, Louis XIV, Louis XV và Louis XVI. Nằm ở phía Tây
Paris, cung vàng điện ngọc này là biểu tượng của quyền lực tối thượng của các
triều đại phong kiến Pháp với một diện tích và các công trình kiến trúc cực kì
đồ sộ và lộng lẫy. Rộng 67.000 mét vuông gồm trên 2000 phòng, một công
viên
có diện tích 815 héc ta, Versailles là một trong các lâu đài đẹp nhất và lớn nhất
châu Âu, năm 1979 nó đã được Unesco đưa
vào danh sách di sản thế giới.
Bên trong cung điện có
nhiều phòng lớn (Grand Appartement) như Phòng lớn của Đức vua, Phòng lớn
của Hoàng hậu hay Phòng Gương (Galerie des
Glaces) là gian phòng xa hoa nhất.. Các phòng lớn này được thông nhau bằng
các dãy hành lang trang trí lộng lẫy từ sàn nhà đến trần, một tác phẩm nghệ thuật
độc đáo.
8.
Khởi hành từ sáng sớm, Thiện
lái xe đi theo con đường độc đạo và có thể đậu xe ngay dưới chân nhà thờ Thánh Tâm
(Sacré-Cœur) ở Montmartre: ( sau
9h thì con đường bị cấm cho xe chạy và
phải đậu xe khá xa, dưới chân đồi). Bạn đúng là thổ địa và là người thường chở
bạn bè đến thăm viếng nơi đây.
Montmartre
là một khu phố của Paris, nằm trên quả đồi lớn thuộc Quận 18. Từng là nơi tập
trung của nhiều họa sĩ nổi tiếng, vương
cung thánh đường Sacré-Cœur (Basilique du Sacré-Cœur) là một
nhà thờ Công giáo nổi tiếng, các
con phố nhỏ, quán cà phê, nhà hàng... Nơi đây là một trong những địa điểm thu
hút du khách và thuận lợi để nhìn toàn cảnh Paris.
Năm 1870, chiến tranh Pháp - Phổ nổ ra. Nước Pháp thua trận, Quân Đức chiếm một phần lãnh thổ. Ý định xây dựng nhà thờ
Sacré-Cœur xuất phát từ hai nhà tư sản Paris, cũng là hai
anh em cột chèo Alexandre Legentil và Hubert Rohault de Fleury,
vốn
rất sùng đạo, họ cho rằng nước Pháp thua trận vì đã mang tội lỗi. Do vậy, cần
phải xây một nhà thờ để tỏ lòng thành tâm.
Đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đã từng có rất nhiều nghệ sĩ danh
tiếng đã từng sống tại Montmartre. Khu phố nghệ sĩ thường là điểm đến của những
họa sĩ nổi tiếng bậc nhất với các trường phái Ấn tượng, Lập thể,
Dã thú…
Hiện nay Montmartre vẫn giữ được
không khí nghệ sĩ, tập trung nhiều nhà hàng, quán cà phê, phòng tranh, cửa hàng
đồ lưu niệm... Trên quảng trường Tertre, có các họa sĩ vẽ chân dung
và tranh biếm họa cho du khách.
9.
Buổi
chiều họp mặt các bạn ở sân vườn nhà Thiện. Hiện diện có các bạn Nghĩa, Hương Hưng,
Quang và Thuỷ. Cả bọn nướng thịt vừa uống
rượu vang vừa nhắc lại chuyện học hành và sinh sống ở Âu châu. Sau đó chuyển
qua đề tài văn học. Thiện giới thiệu tiểu thuyết “Bàn tay nhỏ dưới mưa” của tôi và tặng sách cho các bạn.
Hai bạn Kiên và Khải có gọi điện nói không
đến được và hẹn ngày khác nhưng hôm sau tôi phải về lại Milano rồi! Tôi cũng rất
tiếc là chuyến này không gặp được nhà phê bình văn học Đặng Tiến.
Tối đó tôi hỏi Thiện sau này có định
về VN ở hẳn không? “Có chứ! Nhưng phải vài năm nữa! Trước khi về cần thu xếp để
có kinh tế ổn định. Tao chưa dám liều mạng bỏ
việc hơn 10 năm để chờ hưu như vợ chồng mầy”.
Nhấp một hớp rượu, Thiện tiếp: “Nhiều
năm sống ở đây nhưng tao vẫn thấy đời sống xa lạ sao sao ấy! Áp lực vô hình cứ
đè nặng. Có lẽ xã hội Việt Nam sau này cũng sẽ như
thế, nhưng mình già rồi, về sớm để sống lại thời thơ ấu trước khi nó bị Tây
phương hoá.”. Im lặng
một lát như suy nghĩ điều gì rồi một lát anh mới nói: “Đời sống càng ngày càng
vô nghĩa. Thế giới có cả núi thông tin, nhưng chẳng có mấy ai suy nghĩ về những
điều mình biết. Nhịp sống thay đổi, nếp sống văn hoá quay cuồng. Tao cũng rất
muốn được hoà mình trong thi ca, văn học, âm nhạc, mỹ thuật… để sống chậm lại,
bình yên trong ngôi nhà nhỏ, ngẫm nghĩ về những điều từng trải trong đời. Tao rất
sợ mình cứ hồn nhiên đánh mất linh hồn rồi cứ loay hoay nhìn quanh tìm kiếm nó!”
Tối đó Thiện nhờ tôi cầm về Ý để
đưa cho Châu 300 Euro, để đóng góp vào Quỹ của Hội Tương Trợ Ý Việt. Anh còn đưa
tôi 120 Euro nói là tiền cho 6 quyển sách nhưng tôi nhất quyết không nhận. Thiện
nghiêm mặt “Mầy đã bỏ việc, viết lách thì không giàu, in sách tốn kém, nếu
không nhận là tao giận”. Biết khó thuyết phục bạn, tôi nói giữ “tạm”, nhưng tháng
7 tới, lúc Thiện về Việt Nam, sẽ cùng giao tặng số
tiền này cho một bạn văn đang có hoàn cảnh rất khó khăn ở Việt
Nam.
Sáng, chia tay ở sân
bay. Chúng tôi ôm lấy nhau không muốn rời, hẹn sẽ gặp lại ở Sài Gòn và mời
“Quán Văn” sang thăm nước Pháp.
Milano, 30.05.2012
T.V.D
Bài viết rất tuyệt, xin anh cho mượn bài này để làm một production nhé, Xuân Phong
Trả lờiXóaChào anh Xuân Phong,
XóaNhư vậy là vui lắm rồi! Chúc anh sức khoẻ! Thân mến!