Đi ra khỏi nhà sợ quen tạm trú
Một đêm đau lưng mắt mở trừng trừng
Đi ra khỏi là ra đi với nhớ
Để chiều về đâu , ngơ ngác bâng khuâng.. (Những ngày long đong -Thơ Vũ Hữu Định)
Hơn hai năm được tập trung học tập cải tạo ở T64, Vĩnh không có người thân nào tìm lên thăm nuôi - ngay cả Thảo, người vợ vừa đính hôn . Tháng 7 năm 74, Vĩnh xin nghỉ phép 15 ngày để về lo cho lễ hỏi. Theo ý kiến của mẹ Thảo - được anh chị Vĩnh - đại diện cho họ nhà trai, chấp thuận thì chờ đến ngày 1 tháng 5 năm sau, sẽ tổ chức lễ cưới vì ngày ấy sẽ hạp với tuổi Thìn và Ngọ của Vĩnh và Thảo. Đến ngày ấy, Thảo cũng sẽ thi tốt nghiệp sư phạm xong, còn Vĩnh cũng có rộng thời gian để chuẩn bị cho mọi chuyện trong hoàn cảnh đơn chiếc - mồ côi cả cha lẫn mẹ như anh…
Đến ngày 1 tháng 5 - như bao người trai trẻ trong hàng ngũ quân đội hay chính quyền của Việt Nam Cộng Hoà , Vĩnh đã bị tập trung trong một khu rừng của miền cao nguyên Trung phần, trong những lán trại được dựng lên vội vã bởi những bàn tay lơ mơ lớn lên từ phố thị chỉ biết ăn học chơi bời rồi bị chui vào lính như Vĩnh-gọi là “ trại tù tàn binh”.
Suốt hai năm lao động khổ nhọc, ăn không no thuốc lại hiếm; chỉ tiêu công tác ngày càng nặng nề -Vĩnh không được có thêm một chút gì để gọi là “ bồi dưỡng” cho tấm thân ngày mỗi gầy xanh ngoài 3 bữa cơm, mỗi bữa hai sét chén từ thời ăn với cá khô chiên mặn,và một muỗng lớn canh rau củ gì đó - trong lúc nhiều người bạn đồng cảnh ngộ ở trong trại hằng tuần, hằng tháng đều được người thân thay phiên nhau “ thăm nuôi” , tiếp tế cho lương khô, đường, thuôc men…
Người bạn học cũ là giáo sư (1) bất ngờ được trại biên chế phân công về phục vụ ở nhà bếp - một buổi chiều, anh mang về lán cho Vĩnh chút ít thức ăn thừa -và, ghé tai nói nhỏ: “ Tối, cậu ghé lại chái hiên tranh bên trái nhà bếp mà lấy gói cơm cháy nhé? “. Từ đó, mỗi đêm, Vĩnh đã được “ bồi dưỡng “ thêm cuộn cơm cháy thơm ngon để được ngủ yên mà không trằn trọc vì cái đói và nỗi buồn !
Theo quy đình của trại, ngày chủ nhật được nghỉ lao động ( ngoại trừ các công tác đột xuất)- tù binh được tự do sinh hoạt ở trong trại, hay ra khu tiếp tân gặp thân nhân và nhận quà nếu có gọi tên thông báo. Suốt một năm ròng- hơn 360 ngày trông chờ, Vĩnh không hề được gọi tên ra khu tiếp tân lần nào nên về sau hễ đến ngày chủ nhật là anh thường “ tình nguyện” lên khu sản xuất sâu trong núi xa để “ canh giữ thú rừng”! Sáng sớm, sau khi ăn sáng cùng mấy bạn trong tổ xong- Vĩnh xách túi lên nhà bếp lãnh phần cơm trưa ( chiều thì về trại ăn), và anh luôn luôn được nhà bếp “ thông cảm” bới thêm cơm , cho thêm vài con mắm khô mà lên đường…
Treo võng nằm một mình trong rừng sâu, Vĩnh cảm thấy nỗi cô độc của mình được lắng xuống, nỗi buồn đau cũng đươc xoa dịu- khi nghĩ rằng, trên đời này, mình không còn có chút liên hệ gì nữa? Không có gì nữa để phải bận tâm ưu phiền. Lúc ấy, Vĩnh cảm thấy sự sống và cái chết thật gần nhau- chỉ cách nhau một sợi tóc. Và, sau đó- nếu không đi lang thang quanh quẩn để đào củ hà thù ô, hái lá xăm xăm thì Vĩnh chìm sâu dần vào giấc ngủ nặng nề trong cái không khí u trầm quạnh hiu của khu rừng già.
Khoảng hơn bốn giờ chiều, khi khu rừng sẫm tối- tiếng chim muông, thú rừng bắt đầu xáo xác tìm về hang tổ thì Vĩnh cũng lục đục thả bước- lặng lẽ trở về khu lán trại kịp trước giò cơm chiều. Một ngày chủ nhật yên tĩnh đã trôi qua. Anh đã trở về trại như kẻ từ nơi thật xa nào trở về, không mảy may biết đến những gì đã xảy ra ở đây… Vĩnh nhớ lại những ngày chủ nhật xưa, khi anh còn ngồi bó gối trên sạp tre giường ngủ để lắng nghe tiếng gọi tên của những bạn tù được người thân đến thăm nuôi mà lòng cứ rưng rức, bồn chồn. Thảo không một lần lên thăm, hay thư từ-nhắn gởi gì. Thảo của tấm áo vải hoa mầu bông bí mà anh đã mua tặng sau lễ hỏi, của những chiều ngồi ở bãi biển đến tối mịt mà vẫn chưa muốn rời, của những nụ hôn môi ướt đẫm nghĩa tình, nay đang tan loãng dần trong trí nhớ anh như những cụm mây… Gần 16 tháng Vĩnh đã sống trong nỗi buồn đau của kẻ chiến bại trong cuộc đời và cả trong tình yêu. Sau đó, tin Thảo có chồng được vài người thân của bạn tù lên thăm kể lại, Vĩnh mới hết mong chờ, mà thế vào bằng một tâm trạng lửng lơ bàng hoàng thường trực. Anh sống, sắp hàng, đi lao động, lãnh cơm, lên hội trường theo tiếng còi ( vvv) như một chiếc máy gần hết năng lượng. Ước mơ một ngày nào hòa bình được giải ngủ trở về bên gia đình, vợ con để viết lại những gì cần viết cho mình cho người đã bao lần thầm thì với Thảo nay thật xa lạ, mịt mờ trong đầu óc Vĩnh– đôi lúc nó làm anh khiếp đãm, sợ hãi, không dám nghĩ tới nữa. Nó đang tan biến dần, thế vào bằng một nỗi ê chề rã rời mềm nhũn như mẫu bánh mì vứt xuống dòng nước..
Gần hai năm đã đi qua từng giây phút của cuộc đời Vĩnh như thế.
Ngày anh và một số bạn tù trong trại được phóng thích đã đến. Đó là một buổi chiều ngồi ở hội trường căng thẳng lắng nghe vị giám đốc trại đọc danh sách những tù binh được rởi trại trở về với gia đình đợt đầu tiên đã đem lại phút giây thật khó quên trong đời, dù anh biết rằng – sau đó, anh sẽ chẳng còn gia đình nào để trở về, chẳng còn biết nơi nào để dừng lại?
Một nhóm khoảng 30 người của trai T 64 đã được trở về, trong đó có tên Nguyễn Thế Vĩnh. Anh lặng lẽ đi nhận tiền phụ cấp tàu xe, nhận giấy chứng nhận phóng thích, mà không dám ngẩng nhìn những người bạn tù còn ở lại, đang ngồi từng nhóm trước lán- hay giữa sân với nét mặt dàu dàu hốt hoảng. Anh hiểu nỗi khát vọng tự do và mơ ước trở về cùng mái gia đình trong họ sau bao năm lăn lộn, lận đận với súng đạn thật mãnh liệt- nhưng niềm hy vọng ấy đang dần lịm tắt khi không nghe thấy tên mình được gọi.. Anh lặng lẽ đem những vật dụng cá nhân thường ngày của mình chia cho những người trong tổ- và chỉ giữ lại chiếc ống tre hút thuốc lào đã nhẵn bóng có khắc câu ” Hận Người Bội Bạc” với dòng ngày tháng ghi dấu kỷ niệm…
Sáng sớm hôm sau một chiếc xe khách đã chạy vào cổng trại, bọn anh đi bắt tay từng người quen thân-rồi lần lươt lên xe theo tiếng đọc tên của người sĩ quan phụ trách đưa bọn anh về bến xe thị xã..
Xe chạy.
Băng qua con đường đá sỏi gồ ghề mà thường ngày bọn anh vẫn đi qua để đến các nương sắn , bãi tranh, rừng tre…
Vĩnh tỉnh táo- đôi mắt mở to, lặng nhìn hai bên con đường mòn quen thuộc, từng tảng đá lớn, từng gốc cây cổ thụ rợp bóng, từng con suối vắt ngang như cố thu vào trí nhớ một hình ảnh thật thân thương mà từ giây phút này anh sẽ không bao giờ được nhìn lại…
Xe đã ra liên tỉnh lộ, thẳng đường về thị xã.
Vĩnh thì thầm với mình: “ Xin vĩnh biệt!”
Vĩnh ghé vào nhà của người anh ruột trước tiên.
Với gương mặt khắc khổ và cái nhìn thờ ơ có chút ngạc nhiên, ông hỏi: “ Chú định sẽ đi về đâu? “
Vĩnh ngồi yên- đốt tiếp một điếu thuốc, thở khói…
-Thảo đã ra trường, được phân công dạy ở thị xã, sau đó vài tháng là đám cưới!
-Em đã biết rồi!
-Cha của Thảo quần kết hoạt động ở chiến khu về, đang làm phó chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Cánh Mạng tỉnh!
-Em có nghe nói…
-Chồng Thảo hiên đang làm Trưởng Phòng giáo dục thị xã…
-Vậy à?-Vĩnh thả mẫu thuốc đang hút dở xuống nền gạch, lấy giày dí nát- anh nhếch cười, chuyện đời vẫn vậy mà anh?- Vĩnh nhìn lên gương mặt anh thật lâu- nhếch cười- coi như mình không hề biết gì, mọi chuyện đều không liên quan gì đến mình - tất cả chỉ là trong một giấc mơ đã bừng tỉnh mà thôi!…
Vợ chồng người anh không mời Vĩnh ở lại- họ đều nhìn Vĩnh với ánh mắt lạnh lùng. Cả bốn con mắt ấy không tỏa ra một chút sinh khí vương vấn nghĩa tình nào. Nó lạnh tanh. Cứng đờ. Riêng bà chị dâu mà thuở nhỏ anh đã rất khổ sở vì bà vẫn giữ nguyên cái im lặng chết người như ngày nào từ khi Vĩnh bước chân vào nhà. Bà im lặng. Đứng đó. Chỉ nhìn- cái nhìn lơ lửng thoáng qua dường như không trông thấy gì? Không cảm xúc – như nhìn một người khách lạ đi qua đường. Gia tài của cha mẹ Vĩnh để lại đã thuộc về tay người anh từ những năm Vĩnh hãy còn nhỏ có lẽ cũng đã bắt nguồn từ cái im lặng sâu kín khó hiểu ấy? Anh đã ba lần ký tên vào các thứ giấy tờ bán ruộng, bán nhà, mà không hề đòi hỏi điều gì, cho dầu chỉ là một bộ đồ mới để có cái thay đổi đi học. Sau này, có chút ít vốn liếng Vĩnh gom góp được từ bao năm dạy học ở các trường tư thục anh đã gởi vào ngân hàng để lo cho ngày cưới và một mái nhà riêng cũng bay vuột mất theo sự sập đổ sau ngày 1 tháng 5 rồi! Vĩnh nghĩ: gởi tiền vào ngân hàng là cách chắc chắn để khỏi tiêu phí nhưng có gì chắc chắn với đời người trong thời buổi này đâu? Tối nhắm mắt, sáng mở mắt- đã thấy đổi khác rồi. Vĩnh nhận ra sự mong manh, tạm bợ, giả trá của mọi thứ mà không ngớt buồn. Trong túi Vĩnh, hiện còn lại mấy chục tiền trợ cấp ăn uống, tàu xe của trại - liệu anh sẽ sống được thêm bao nhiêu ngày trong cái thị xã quê nhà mà chẳng có nơi để đặt lưng nghỉ tạm qua ngày?.
Vĩnh bước ra khỏi nhà người anh như bước ra khỏi một rạp hát khi không xem tiếp nổi một vở kịch tồi. Dọc phố, thỉnh thoảng chạm mặt người quen- nhưng họ chỉ nhìn theo anh mà chẳng có ai chào hỏi một lời khiến anh phải nghĩ,dường như ở con người anh có cái gì khác lạ, hay kì dị ? Hay ở trong tận cùng lòng dạ kia đã bị đè nén, vây phủ bởi những đám mây đen u ám? Anh lầm lũi bước, lòng thênh thang buồn- và tình cờ dừng lại trước căn nhà của một người bạn là một nhà thơ.
- Cháu cho chú hỏi thăm chút nhé?-Vĩnh gặng cười với cô bẻ trạc 10 tuổi đang ngổi trước cánh cửa sắt mở hờ.
- Chú hỏi ai?
- Nhà của ông Hoàng Quy…
- Dạ phải- cô bé nhìn Vĩnh có vẻ kỹ hơn- mà chú tên gì ạ?
- Tên chú là Nguyễn Thế Vĩnh- anh cười, nhớ chưa?
- Dạ nhớ! - Cô bé vội chạy biến lên cầu thang lầu.
Vĩnh ngồi vào chiếc ghế bỏ trống của cô bé, lấy thuốc ra đốt.
Khoảng năm phút sau.
Cô bé chậm rải bước từng bước xuống cầu thang:
- Ba cháu đang làm việc trên trên Đài rồi chú ơi! - Cô bé dừng lại, nhìn Vĩnh với cái nhìn khang khác- hình như nó vừa sợ hãi, vừa lo lắng- Ba cháu bận nhiều việc lắm chú à!
- Vậy à? Vĩnh cười lớn:- Khi ba về, cháu nói giúp là có chú Vĩnh ghé thăm nhé?
Vĩnh lửng thửng ra đường- cắm cúi bước hướng về phía bến xe, anh nghĩ có lẽ phải ăn một dĩa cơm đàng hoàng trong ngày đầu tiên được tự do…
Ba hôm sau, Vĩnh quyết định bán chiếc nhẫn đính hôn 1 chỉ bằng vàng 24 kara để mua vé xe đò vào Sài Gòn, hay đến một nơi nào thật xa ở đây. Vĩnh không chịu nỗi cái không khí lạnh băng, xa lạ ở đây, ngay trên quê nhà của mình. Vĩnh tính, ở Saigon, anh có thể nhập vào nhóm người khuân vác ở các bến xe, hay thế chấp giấy tở tùy thân mà thuê chiếc xích lô đạp kiếm sống qua ngày dễ dàng. Vã lại, ở Saigon, Vĩnh còn có cô em gái út, để khi nhớ- có thể tìm đến thăm; còn một số bạn bè cũ thời sinh viên, cũng có thể lai rai hè phố khi có dịp…
Dù tấm giấy xin tạm trú 3 tháng ghi rõ địa chỉ nhà của cô em gái, nhưng Vĩnh đã không tìm đến đó. Anh đi lan man qua nhiều con đường phố không mục đích, nhìn ngó cảnh vật sau hơn 2 năm trở lại, lòng cảm thấy bùi ngùi như lạc vào chốn mênh mông không người, không có bến bờ dừng chân. Cũng con đường này, những góc phố kia , hàng cây rợp bóng nọ mà sao Vĩnh nghe trống trải quá chừng?
Sau cùng, Vĩnh tạt vào chiếc quán cà phê cóc bên hông công viên Quách Thị Trang. Ngồi yên lành vào chiếc ghế nhựa cũ kỹ bám đầy bụi, anh lơ đãng nhìn ra tượng Quách Thị Trang- cô nữ sinh ngày nào của Sài Gòn một thời sôi động, hực lửa. Cô bé vẫn còn đứng đó, như một chứng tích- mắt hướng nhìn dòng chảy Sài Gòn ngược xuôi ầm ào không dứt. Quách Thị Trang, một thời của khát vọng tự do. Một thời của tuổi trẻ sôi sục đêm ngày.
- Thưa anh dùng gì ạ?-Tiếng người con gái đứng cạnh vang lên , chờ đợi.
- À, xin lỗi- Vĩnh cười, cho anh một ly cà phê Sài Gòn…
- Cà phê gì ạ?- Người con gái trạc hai mươi tám tuổi có giọng nói ngoài Trung làm Vĩnh hơi ngạc nhiên và cảm thấy vui vui.
-Cà phê Saigon mà! Vĩnh cười, là café uống tại Sài Gòn đó em…
Cô gái mỉm cười, quay đi.
Ly cà phê đầu tiên sau ngày 1 tháng 5-75 Vĩnh được uống tại Saigon sau bao tháng ngày ở chốn hoang dã rừng sâu đã đem lại cho anh niềm vui bất ngờ như được gặp lại người cũ rất thâm tình. Anh hớp từng ngụm nhỏ, đốt thuốc, chậm rải và nhẹ nhàng như sợ niềm vui kia sẽ chóng tan đi mất.
- Hình như em ở miền ngoài?-Vĩnh quay ghế lại đối diện với cô gái đang ngồi hướng về phía công viên chói chang ánh nắng. Lần này anh nhìn cô gái hơi kỹ vì cảm thấy trên gương mặt bầu bỉnh ấy phảng phất những nét rất giống Thảo.
- Dạ, cô gái che miệng cười- nghe giọng của em ai mà chẳng biết?
Sau câu nói, hình như cô ta cũng vừa phát hiện ra Vĩnh không phải là người miền Nam. Cô nhìn anh giây lâu-cười: “ Hình như anh cũng không phải dân ở đây?”.
-Tôi là dân tứ xứ mà!-Vĩnh cúi xuống để tránh cái nhìn hơi tò mò của cô gái - tôi chỉ là kẻ tạm trú thôi!
- Em cũng là kẻ tạm trú mà, anh!-Cô gái im lặng giây lâu, rồi nói: - Cuộc đời cũng chỉ là một nơi tạm trú thôi…
“ Cuộc đời cũng chỉ là một nơi tạm trú thôi” - câu nói ấy đã khiến Vĩnh sững sốt. Cô gái trẻ ấy, cô hàng cà phê lề đường, sao lại có thể nghĩ ra được điều sâu kín ấy nhỉ?- Anh nhìn lên gương mặt lúc này đang đăm chiêu của cô gái: “ Anh xin lỗi, anh muốn biết trước đây em đã làm gì, ở đâu được không”
- Nhiều lúc em nghĩ, mình nên giấu kín tung tích đi, bởi đó là chuyện đau buồn thua thiệt của dĩ vãng, đã qua rồi, nhưng sau đó, em thấy lòng không thư thả, lại thêm hoang mang , ray rức. - Cô dừng lại, nhìn đứng lên mắt Vĩnh- nếu anh thật lòng muốn biết , thì em sẽ kể cho anh nghe…
Cô gái vừa tròn hai mươi tám tuổi, đã có một đời chồng và hiện đang sống với đứa con gái duy nhất 3 tuổi. Năm 73 tốt nghiệp đại học kế toán - tài chánh Sài Gòn, chồng là dân quản trị kinh doanh Đà Lạt. Sau gần 3 năm quen biết, hẹn hò, yêu thương- đầu năm 74, cả hai đã được gia đình tổ chức đám cưới thật rôm rả ở Nha Trang. Giữa năm 78, hai người anh trai của cô ở quê vượt biển. Cuối năm ấy, cô bị biên chế cho nghỉ việc ở phòng tài chánh huyện. Năm 80, nghe theo lời người cha đang công tác ở phòng tổ chức tỉnh, chồng nàng đã đề nghị cùng nàng tự nguyện ký vào đơn xin ly hôn. Lý do nêu ra thật mơ hồ : “ Không cùng quan điểm sống, hay mâu thuẫn, không hạnh phúc”. Không qua hòa giải, chỉ trong vài ngày sau ngày, tòa án đã tuyên bố cho phép ly hôn, và mọi thủ tục giấy tờ chúng minh đã sẵn sàng đưa cho nàng. Mọi chuyện kết thúc nhanh gọn đến nỗi, có lúc cô không thể tin là sự thật. Cô phải xa chồng, ẵm con về quê, vĩnh viễn rời bỏ đời sống yên lành đã bao năm gắn bó…
Buồn- cô đã một thân ẵm con vào Saigon kiếm sống-và nhất là, để xa nơi đã từng ghi dấu bao kỷ niệm một thời son trẻ hạnh phúc của đời con gái. Lạc vào Saigon- tại bến xe Miền Đông- cô được chú Phú-một người đồng hương lưu lạc cưu mang, cho tạm trú trong căn nhà ván lợp tôn dọc đường Phan Xích Long, Phú Nhuận. Địa điểm mở quán café này-cũng nhờ chú tìm giúp. Mỗi sáng, chú chạy cuốc xe đầu tiên là chở cô ( và ít vật dụng) lên nơi bán, gởi cháu bé vào nhà nuôi mẫu giáo. Chiều , đến đón cháu bé và chở cô về nhà . Hai mẹ con cô được vợ chồng chú Phú cho ở trên căn gác-mỗi tháng tính cả thảy là một trăm ngàn.
Cô gái nhìn Vĩnh - giọng như thì thầm: “ Em coi như đời em đã chấm dứt từ ngày rời xa quê rồi anh à!”.
-Nếu em nghĩ vậy, thì đời anh lại càng phải chấm dứt hơn-Vĩnh cười mơ hồ.
-Anh nói gì em không hiểu?
-Em cứ hiểu đại khái vậy cũng đủ rổi!-Anh liếc nhìn cô gái như một vệt sáng chiếu lướt qua, nhẹ nhàng.-Chúng ta đều là những kẻ tạm trú…
Vĩnh đứng dậy- thọc tay vào túi quần tìm lấy tiền trả cho cô gái- bất chợt, anh cầm lấy bàn tay cô gái- giữ yên thật lâu: “ Rồi sẽ có ngày anh tìm đến thăm mẹ con em! Nhất định vậy… ”.
Tháng 5/ 1999.
Man Viên Long
(1) Trước ngày 30/04/1975, ở miền Nam, các thầy cô dạy học từ lớp 6 đến lớp 12, được gọi là giáo sư.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét