Ông Tự uể oải vươn vai một cái rồi chậm
rãi đi qua cửa nhà chòi ra bãi cát mé sông. Cát nóng bỏng lạo xạo dưới bàn chân
trần. Ông lội xuống dòng nước chảy lờ đờ, tới chỗ ngang ống quyển, khom người
chúm hai bàn tay vục một bụm nước úp vào mặt. Rồi một bụm nữa. Nước nhỏ giọt
trên chòm râu, nhỏ xuống bộ ngực trần đen đúa, xương xẩu. Nước mát làm ông thấy
khoan khoái. Ông ngước nhìn lên phía tây, nơi có những ngọn núi xanh thẳm, lững
lờ chòm mây trắng, miệng lẩm bẩm :
- Qua tiết lập
đông rồi mà chẳng thấy động tĩnh gì. Chừng nào ông trời mới chịu đổ nước về.
Ông vừa lểu thểu
về chòi vừa nghĩ tới bữa cơm chiều. Cả tháng nay ông phải chắt chiu, tính toán
từng bữa ăn, sao cho cầm cự tới khi lũ về. Nước cạn kiệt. Trên khúc sông quen
thuộc, ban ngày, ông thả lưới, quăng chài, lặn bắn miệt mài, ban đêm, bơi sõng
đi soi đến bét mắt mà vẫn không đủ đắp đổi bữa ăn. Con sông ngày càng ít cá. Đã
vậy, có kẻ còn dùng xung điện. Rồi thuốc cỏ, thuốc trừ sâu từ các chân ruộng chảy
xuống. Con cá nào sống sót, trốn bặt vào hang, hốc trong các hầm chảo gai góc…
Ông Tự mong lũ
đến mỏi con mắt. Vì khi lũ về, cá tràu, rô, trê … trồi ra vẫy vùng. Lại thêm cá
trôi, diếc, chép, mương, chốt…ở các lòng hồ, khe suối chốn đại ngàn xuôi theo
con nước bạc. Cá ở vùng hạ bạn ngược dòng... Chỉ cần nhìn luồng nước chảy, chọn
vị trí thả nhá kéo, có khi, chỉ một lát, lờ cá đã đầy nóc. Nước rặt là mùa thu
hoạch. Tha hồ bủa lưới. Cá no mồi béo núc. Tối đến, chỉ cần một trận mưa, ếch
giao hoan kêu ồm ộp khắp cánh đồng. Chịu khó đội đèn bin đi soi một chặp, cũng
kiếm được kha khá.
Ông lại góc
bếp, loay hoay nhóm lửa nướng lòi cá rô muối. Xong, ông ngồi nhắm rượu. Ông
nhâm nhi từng ngụm. Men rượu làm người ông nóng phừng. Ông thừ người ra nghĩ ngợi.
Lại buồn. Ông Tự chưa cưới vợ. Chẳng có đứa con gái nào chịu lấy ông bởi không
kham nổi cuộc sống phập phù nơi sông nước. Biết làm sao được. Ông đã gắn bó máu
thịt với nghề chài lưới và tìm được trong công việc bao niềm vui thú riêng. Ông
còn nhớ, sau ngày giải phóng, một anh cán bộ bước vào căn nhà chòi, lạ lẫm ngó
chung quanh, săm soi từ cái bếp đến chỗ ngủ. Anh ta bảo với ông :
- Trường
hợp của anh, chúng tôi cũng đã họp bàn rồi. Anh thuộc thành phần cơ bản được
chiếu cố. Chúng tôi bố trí anh chân bảo vệ hợp tác xã nông nghiệp thị trấn. Thế
sẽ tốt hơn cho anh. Không lẽ, anh cứ sống lẻ loi cả đời ở bến sông này à ? Một
cuộc sống không ánh điện, không hội hè…Còn mùa lũ, anh xoay trở thế nào trong
cái nhà chòi trơ trọi này ?
Ông Tự ầm ừ cho xong
chuyện. Đâu lại vào đấy. Lũ nhỏ. Có hề hấn gì ? Lũ lớn, nước lụt tràn bờ. Ông
lấy ít vật dụng cần thiết bỏ lên sõng, mà thực ra đồ đạc ông có nhiều nhặng gì
đâu, chèo thẳng vào nhà người quen ở nơi cao ráo ven thị trấn ở tạm vài hôm.
Căn nhà chòi bị lũ trôi, ông dựng lại, tốn ít tranh tre là xong. Anh cán bộ đến
mấy lần nữa cũng không lay chuyển được ông cũng đành thôi. Hồi ấy, xảy ra một
chuyện đã làm xáo trộn cuộc sống bình lặng của ông. Một đêm khuya, trăng rất
sáng. Ánh trăng vàng trên mặt sông. Ông trằn trọc không chợp mắt được, ra trước
hiên ngồi hóng mát. Bỗng có tiếng chân người đi vội dọc theo bờ sông. Ai ra
sông giờ này ? Linh tính báo cho ông biết có chuyện bất thường. Thêm một kẻ
chán đời chăng ? Ông Tự nhổm dậy bước sải theo. Quả nhiên, đến chỗ vực nước
sâu, người kia nhảy ùm xuống nước. Không chần chừ, ông cởi áo nhảy ào theo, bơi
như con rái cá, vừa bơi vừa quan sát. Định được vị trí, ông thận trọng lặn
xuống, quờ tay tìm kiếm. Đụng được mái tóc. Một cô gái. Ông xoắn tay nắm chùm
tóc trên trán, kéo giật đầu cô gái ra sau, cố sức đưa lên mặt nước. Cô ta giãy
giụa yếu ớt rồi xuôi tay, bất động. Ông vừa bơi vừa kéo cô ta vào bãi cát gần
đấy. Bằng những động tác hết sức thuần thục, ông xốc nước, hô hấp nhân tạo. Ông
từng cứu được không ít người thoát chết chỗ cái vực đó bất chấp lời nguyền thế
mạng luôn ám ảnh người dân chài. Cô gái nấc lên, miệng, mũi ói trào nước. Ông
thở phào, bế thốc cô gái rảo bước về chòi, đặt cô nằm trên chiếc chiếu. Người
cô run lên cầm cập. Ông quơ vội bộ quần áo khô còn lành lặn vắt trên cây sào
phơi đồ thay gấp cho cô rồi lấy tấm mền đắp lên người. Ông quày quả nhóm lửa.
Ngọn lửa bùng lên, hơi nóng lan tỏa. Ông bưng lò lửa lại, đỡ cô gái ngồi dậy
sưởi. Gương mặt cô trắng nhợt nhạt, môi tím tái. Mắt thất thần, sợ hãi. Lát
sau, cô gái chợt nói :
- Sao anh lại cứu
tôi ?
- Bởi số cô chưa
tới lúc chết.
- Tôi không muốn
sống nữa.
- Cô nên nghĩ kĩ
lại đi. Muốn chết là ý nghĩ bậy nhất trên đời.
- Còn nghĩ gì
nữa. Giá mà anh biết, tôi…tôi…không còn dám nhìn ai nũa? Thật quá xấu hổ nhục
nhã !
- Xấu hổ nhục nhã
nhất là trốn tránh cuộc sống. Cô biết không, ngay con cá, con tôm tôi bắt được,
nó giãy giụa đến khi kiệt sức mới chịu chết.
Cô gái ôm mặt khóc,
tiếng khóc tức tưởi mỗi lúc một lớn. Ông quấn một điếu thuốc rê châm lửa hút.
Cô ta khóc được là đỡ rồi. Giọt nước mắt sẽ làm nhẹ bớt nỗi đau. Chờ cho tiếng
khóc cô gái dịu đi, ông nhỏ nhẹ :
- Giờ cô chợp mắt
một tí, gần sáng hãy về. Mọi chuyện sẽ ổn thôi.
Cô gái mệt mỏi
nằm xuống. Mắt cô khép lại. Hơi thở đều đều. Giấc ngủ đến với cô thật nhanh
chóng. Bấy giờ ông mới nhìn kĩ cô gái. Trông cô thật đẹp. Sóng mũi thẳng, hàng
mi cong cong, làn môi e ấp… Ông bồi hồi cầm bàn tay cô ve vuốt… trong ông bỗng
dâng trào một cảm giác rạo rực. Mặt ông nóng bừng như bị thiêu đốt bởi sự thèm
muốn của phần đàn ông đang thức dậy. Nhưng…Nhìn nỗi đau khổ còn đọng trên gương
mặt nhợt nhạt…Nỗi đau khổ đã dẫn cô quyết định ra bến sông để tự vẫn…Ông buông
bàn tay cô gái, kéo tấm mền dém kĩ cho cô rồi bước ra ngoài, tới chỗ cái sõng
đang neo gần đó, leo nhanh lên sõng, tháo dây cột, chèo thẳng ra giữa dòng.
Bóng ông khuất dần trong trăng.
Ít
hôm sau, lúc gần trưa, ông bơi sõng đi giở lưới bắt cá về, vừa bước lên sàn
nhà, ông Tự ngỡ ngàng không tin vào mắt mình nữa. Cô gái ngồi trên võng. Nụ
cười của cô làm sáng cả căn chòi. Cô ta nhanh nhảu :
- Anh cho
em ở tạm thời gian nhé. Bây giờ, em không có nhà, chưa biết đi đâu.
Ông Tự hồ hởi :
- Cô ở bao lâu
cũng được. Cứ xem đây là nhà mình. Chỉ e nó tuềnh toàng quá, không biết cô có
chịu được không ?
Cô gái đứng dậy, tới
gần ông, đột ngột áp mặt vào vai ông nghẹn ngào :
- Em tên Phương
Nhi. Được anh cưu mang là may mắn cho em rồi. Ngoài anh ra, em không biết trông
cậy vào ai nữa.
Phương Nhi kể vắn tắt
cho ông nghe cô bị một gả sở khanh lừa gạt. Khi cô có mang, hắn đã tàn nhẫn bỏ
rơi. Gia đình cô từ bỏ…Giọng cô rắn rỏi :
- Em sẽ bắt đầu lại
cuộc sống mình. Con em không có tội gì. Nó phải được ra đời.
Phương Nhi đem đến cho
đời ông niềm hạnh phúc mà ông chưa từng có được. Nhiều đêm nằm bên cô, nghe
tiếng muỗi vo ve và tiếng nước chảy róc rách quen thuộc, ông cứ ngỡ là giấc mơ.
Rồi Phương Nhi sinh một bé gái. Cô nói với ông :
- Em đặt con bé tên Phận.
Em không bao giờ quên cái số phận nghiệt ngã đã đưa đẩy mẹ con em đến với anh,
để mình có nhau trong cuộc đời này.
Bé Phận ra đời thêm nhiều chi
phí. Ông phải lặn sâu hơn, phơi nắng nhiều hơn để kiếm thêm con tôm, con cá.
Ông cật lực xoay trở đến mướt mồ hôi. Một đêm mưa gió mịt mù, gió lùa vào khe
trống bức vách lạnh căm căm. Phương Nhi Thao thức đến quá nửa đêm. Ông hỏi. Cô
thở dài :
- Em không đành
lòng thấy anh vì mẹ con em mà lặn lội bươi chải vất vả mãi được. Vừa rồi, em
vào thị trấn liên hệ với một người bà con ở xa nhờ tìm giúp việc làm.
Người ấy vừa nhắn tin bảo em vào gấp không khéo lỡ mất cơ hội. Em đi một chuyến
xem thử thế nào. Nhờ anh nuôi giùm bé Phận. Tìm được công việc ổn định, em sẽ
về đón con.
Ông Tự biết không thể
giữ Phương Nhi ở với mình. Sự ràng buộc giữa ông với cô lỏng lẻo đến mức có thể
tan biến bất cứ lúc nào. Cô sinh ra ở thị thành và chỉ thích hợp với cuộc sống
nơi đô hội. Ông nơm nớp sợ mất cô. Điều lo lắng đó đã đến. Phương Nhi nói tiếp
:
- Em không thể tiếp
tục sống như thế này được. Mong anh hiểu cho em.
Ông Tự vẫn im
lặng. Nghĩ tới căn nhà chòi không còn tiếng cười tiếng nói của cô, lòng ông
quặn thắt. Phương Nhi không nói gì nữa. Cô cũng buồn lắm. Nhưng không thể khác
được. Cô đi vào một chiều mưa tầm tã. Ông ẵm Bé Phận đứng dưới mái hiên nhìn
theo. Hạt mưa tạt vào mắt ông cay xè. Từ đó, ông chăm chút nuôi bé Phận. Tiếng
nói bi bô của con bé làm căn nhà chòi bớt trống vắng. Bữa cơm rau, bữa cháo cá,
bàn tay xù xì, thô ráp của ông nuôi Phận lớn lên. Con bé hỏi về má nó. Ông nói
má nó đi làm ăn xa. Có lần, con bé nắm tay ông lay lay, miệng nằng nặc :
- Ba
ơi ! Má bỏ ba con mình rồi phải không ?
Ông phải vỗ về :
-
Không đâu. Má không bỏ ba con mình đâu. Má sẽ về thôi.
Năm ấy khô hạn cháy
đất. Đồng ruộng nứt nẻ. Nắng hạn kéo dài qua tiết đông chí. Cuộc sống của ông
càng thêm túng bấn. Đồng bạc kiếm được quá khó khăn. Có ngày, ông phải vào
trong chợ gánh nước đổ cho mấy mụ hàng cá kiếm ít tiền lẽ mua đỡ bát gạo Vậy
mà, đi học về, con bé thường mếu máo khóc nào là bạn học chọc vì cái áo cũ rách
toạc vai không ai vá, không có tiền mua sách vở, cô giáo hối thúc nộp các khoản
nhà trường thu …Ông chỉ còn biết ôm nó vào lòng :
- Con nín đi. Rồi
ba lo đầy đủ tất cả cho con.
Con bé bệu bạo hỏi :
- Chừng nào hở ba ?
Ông chép miệng :
- Chờ con lũ về con ạ.
Chắc cũng không lâu nữa đâu.
Trán ông Tự hằn sâu thêm nếp
nhăn. Hai cha con im lặng lắng nghe tiếng sấm phía đầu nguồn. Mắt con bé xôn
xao.
* * *
Phương Nhi đi bặt
một hơi mười năm trời. Rồi cô cũng trở về. Cô về khi cái nắng hạn và nỗi chờ
mong con lũ đã làm kiệt quệ sức chịu đựng của ông Tự. Cô hỏi về cuộc sống của
ông, về bé Phận…Nghe ông kể, mắt cô đỏ hoe. Nén xúc động, cô nói :
- Em đã có chồng.
Chúng em sắp đi định cư ở nước ngoài. Mãi gần đây, em mới kể cho anh ấy nghe về
quá khứ lầm lỗi, về bé Phận. Anh ấy cao thượng bỏ qua tất cả và bảo em về đón
bé Phận cùng đi. Em đã bỏ con bơ vơ ngần ấy thời gian. Giờ em sẽ chăm lo, bù
đắp cho nó. Cho em xin lỗi vì không thể cùng anh sống hết cuộc đời này. Anh đã
khổ nhiều với mẹ con em. Ơn anh sâu nặng, đời này mẹ con em không sao trả nổi.
Có cái gì
nghèn nghẹn nơi cổ họng. Sự việc quá đột ngột làm ông sững người. Ông đã mất
Phương Nhi, giờ sẽ mất luôn bé Phận, đứa con gái nhỏ nhắn mà ông rất đỗi yêu
thương? Chẳng lẽ nó không còn quấn quýt bên ông nữa ? Ông sẽ sống thế nào khi
không còn có nó ? Sao số phận trớ trêu với ông như vậy ? Nhưng, sống với ông
thì con bé phải tiếp tục chuỗi ngày cơ cực, thiếu đói deo dắt triền miên. Tương
lai con bé sẽ về đâu ? Con bé cần có mẹ. Không ai yêu thương và chăm lo cho con
bằng người mẹ. Sống với Phương Nhi, ông tin rằng một cuộc sống khác tốt đẹp hơn
mở ra với con bé.
Thấy ông Tự tư lự,
Phương Nhi lo lắng chắp tay lên ngực thổn thức :
- Anh thương em
thì để mẹ con em được ở bên nhau. Em xin anh đấy. Anh cho em cơ hội để làm tròn
trách nhiệm người mẹ đối với con.
Phương Nhi mở cái
xắc lấy một xấp tiền đặt lên cái bàn tre xiêu vẹo, giọng run rẩy :
- Em có chút ít biếu
anh trà nước. Mong anh nhận cho em vui.
Ông vội cầm xấp tiền
dúi lại vào tay cô :
- Đừng làm thế. Cầm lấy
mà nuôi con bé. Dẫn nó đi mà nuôi dạy nó cho nên người nghe.
Con bé đi hái rau về.
Nó lạ lẫm ngó Phương Nhi rồi chạy đến bên ông dò hỏi. Ông vuốt nhẹ mái tóc nó,
nói nhỏ nhẹ :
- Má con đó. Má
về với con rồi. Con đến với má đi.
- Má đây con!
Phương Nhi xúc động kêu lên.
- Má ! Má ơi !
Bé Phận thả rỗ rau
xuống sàn, chạy tới ôm chặt Phương Nhi. Cô bế con bé lên. Hai mẹ con khóc sướt
mướt. Phương Nhi hôn lên má lên tóc nó. Con bé áp mặt vào ngực mẹ, rủ rỉ:
- Má ở lại với
con, với ba nghen.
Ông Tự lên tiếng :
- Má con không ở
được. Con đi với má. Má sẽ lo cho con đầy đủ. Khi nào rảnh, hai má con sẽ
về thăm ba.
Bé Phận phụng phịu
không chịu. Ông phải dỗ mãi nó mới xiêu lòng.
- Má hứa đi má. Má con
mình về thăm ba nghen.
- Ừ, má hứa.
Ngay trong chiều
hôm đó, con bé theo mẹ nó ra đi. Bóng hai mẹ con liêu xiêu trên bờ sông. Con bé
vừa đi chốc chốc ngoái nhìn lại. Ông không chịu nỗi cái nhìn ấy, quay mặt nhìn
ra dòng sông. Dòng nước chảy vấp váp len lỏi qua các bờ cát như đang khắc khoải
chờ đợi đến nao lòng cơn chuyển dạ phía đầu nguồn…
* * *
Cái thị
trấn nhỏ bé giờ đã trở thành thị xã lớn sầm uất. Nhịp sống ồn ào, gấp gáp đã
cuốn phăng đi nhiều thứ. Một buổi sáng ảm đạm, mấy chiếc ô tô bóng loáng chạy
vào con đường đê rồi dừng lại. Lố nhố bóng người bước xuống xe. Những người đàn
ông bệ vệ xun xoe chung quanh hai người phụ nữ ăn mặc sang trọng, dáng vẻ quí
phái : một già, một trẻ. Người phụ nữ trẻ tuổi ngoài ba mươi, gương mặt lanh
lợi. Hai người phụ nữ là Việt kiều từ Úc về, họ là những doanh nhân đang đầu tư
nguồn vốn lớn cho một dự án biến vùng bãi bồi ven sông thành khu du lịch, vui
chơi giải trí cao cấp với khách sạn hiện đại…Nhóm người đi bộ dọc theo bờ sông,
đến chỗ có mô đất bằng, mọc đầy cỏ dại. Hai người phụ nữ đã đến đây nhiều lần
từ hôm trở về nước. Người phụ nữ lớn tuổi tựa vào người phụ nữ trẻ. Cả hai cứ
nhìn đăm đắm mô đất bằng ấy như muốn nhớ lại một điều gì trong kí ức. Người phụ
nữ lớn tuổi thở dài, buồn bã :
- Phận này, má
con mình còn nợ mảnh đất này một lời hứa đấy.
Người phụ nữ trẻ lặng
im. Mắt rớm lệ. Một gã trong nhóm trỏ mặt sông phía trước nói với người phụ nữ
trẻ :
- Thưa cô,
theo thiết kế thì nhà hàng thủy tạ xây chỗ này. Cô thấy có được không ?
Người phụ nữ trẻ
thờ ơ nhìn theo ngón tay gã vừa chỉ. Cô không trả lời. Chợt có tiếng sấm rền
phía đầu nguồn, cô ngước mặt trông lên những đám mây đen vần vũ, giăng mờ mấy
chỏm núi phía tây, bất giác nói một mình :
- Sắp có lũ rồi !
Những người đàn ông
đứng bên cạnh dù cố săn đón nhưng không ai hiểu được ý người phụ nữ trẻ trong
câu nói ấy.
Tôi đã đọc truyện này ở đâu, giờ chưa nhớ lại, nhưng chắc rằng đã đọc. Hãy cùng nhau thắp ngọn lửa nhỏ trong đêm. Chúc anh Phạm Hữu Hoàng, anh Nguyễn Hữu Duyên khỏe
Trả lờiXóaChào anh Phương,
XóaTheo em biết thì Hoàng cũng đang bận bịu công tác quản lý chuyên môn ở nhà trường. Em cũng đã gửi đường link qua hộp thư của Hoàng. Chúc anh sức khỏe, vui!
chúc 2 chú khỏe nhá bài viết hay quá
Trả lờiXóahttp://ngaycua-nang.blogspot.com/ đây là blog của cháu cho cháu liên kết với 2 chú với nha