Nhà thơ Yến Lan
Nhà thơ Yến Lan ( có biệt danh: Lân) là
một trong “ Tứ Linh” (Long, Lân, Quy, Phụng ) của Bàn Thành Tứ Hữu, theo thứ
tự: Hàn Măc Tử (Long), Yến Lan ( Lân ), Quách Tấn ( Quy), Chế Lan Viên (Phụng). Tôi ngưỡng mộ khi được dịp đọc nhiều thơ ông– nhất là, khi
được biết rõ nhân cách của ông ( qua các bài viết của các nhà văn, nhà thơ, nhà
phê bình văn học: Giang Nam, Nguyễn Hữu Thỉnh, Phạm Hổ, Khổng Đức, Tế Hanh,
Hoàng Cầm, Thúy Toàn, Minh Châu,Trúc Thông, Nguyễn Thụy Kha, Hoài Anh…và qua
tác phẩm “Nhớ Mãi Về Anh" của bà Nguyễn Thị Lan ( nhà XB Văn học -2001), cùng tập hồi ký của Lâm Bích Thủy được đăng nhiều kỳ trên trang vnweblogs của
nhà văn Mang Viên Long - 2008).
Người với thơ là một. Người xưa đã từng nhận
định “Văn ( thơ ) là người". Ở nhà thơ Yến Lan, đời sống và thơ ông là một
thể thống nhất, keo sơn – cho dù phải trải qua bao nổi truân chuyên, thăng trầm.
Ông đã trải lòng với thơ, sống chung thủy chân tình với thơ hơn hai phần ba thế
kỷ! Thơ Yến Lan khẽ khàng, sâu lắng, đôn hậu như con người ông vậy!
Từ những bài thơ đầu
tiên trong tuổi thanh xuân, cho đến những bài thơ cuối đời đọc cho người bạn
đời ghi lại trên giường bệnh, nhà thơ Yến Lan vẫn một giọng thơ, một dòng thơ
dào dạt yêu thương đời, yêu thương người với tấm chân tình hồn hậu, rộng mở.
Nhà thơ mồ côi mẹ rất sớm – nhà nghèo, ông viết trong
bài Dáng Mẹ như một khắc chạm, phác thảo tài hoa :
“ Tưởng tượng không ra
hình dáng Mẹ
Đêm dài con thức vẽ chân dung
Thôi đành mượn nét xưa cha kể
Trên mũi kim cong một sống lưng”
Sự nhớ thương ấy gắn liền với hình ảnh khó quên
của đời ông:
“ Quê ngoại bên kia bãi
cát vàng
Mẹ tôi về, lỡ chuyến đò ngang
Cơn đau, trở dạ - không giường chiếu
Tôi lọt lòng ra giữa bãi trăng”
(Bệnh Trăng – 1938)
Nhà thơ đã viết về người chị thứ Tư thân yêu:
“…Tuổi thơ một đời cây
thị
Chiều lung linh theo tiếng chuông chùa
Một lòng giếng nửa làng đến múc
Không thấy mặt mình chỉ nước nhấp nhô
Mẹ chết sớm, chị đi phu
Quần áo rách túm bằng dây chuối…”
Còn lại với người chị -
như người mẹ nhỏ, nhà thơ đã cảm nhận được nỗi cô độc và đã nuối tiếc “ Khi Chị Đi Lấy Chồng”, nhiều người cũng mồ côi,
song đối với ông là cả một không gian mồ côi- mồ côi mẹ, đến chị, đến cả bát
đũa nữa :
“ Khế chua chị nấu lá
mồng tơi
Em ước cùng ăn đến trọn đời
Tang mẹ mãn rồi, bà mối giục
Chị đi bát đũa cũng mồ côi”
Với tình yêu đầu đời –
cũng là mối tình thủy chung cho đến ngày cuối – nhà thơ đã thố lộ trong Tặng Hoa (1938) rất chơn chất, đằm
thắm và chí tình:
“ Tuổi trẻ băng đồng đi
hái hoa
Tặng em ngấp nghé chực quanh nhà
Người không ra đón, hoa dần héo
Héo cả làn mây đỉnh núi xa
Không trách ai đâu, chỉ trách mình
Dáng nghèo, lam lũ áo thư sinh
Bó hoa đơn giản, hương đồng nội
Lầu gác, ai đâu dễ động tình
Trở lại cành trơ, tự hổ ngươi
Giá hoa còn đấy, hẳn đang tươi
Vụng về đến nổi vô duyên vậy
Bởi hiều hoa thôi, chẳng hiểu người…”
Tình yêu trong thơ Yến
Lan có một nét rất riêng: lãng mạn nhưng kín đáo, dào dạt mà từ tốn, chân thật
không lắm lời. Chúng ta hãy đọc vài đoạn tứ tuyệt:
“ Từ cửa nhà em đến nhà
anh
Phải vòng qua một quãng đường quanh
Nhưng vườn sau lại liền không đất
Chỉ cách nhau ra một bức thành”
Hay;
“ Cây trái hai nhà vườn
giao nhánh nhau
Phía anh lê, lựu; phía em đào
Đến ngày trái chín bên này hái
Đưa biếu bên kia lứa quả đầu”
Và :
“ Giận cái ngây thơ tự
buổi đầu
Thấy rằng tường dậu chẳng ngăn nhau
Ai hay rẻ thúy chia duyên ấy
Còn bức tường cao giữa khổ, giàu!”
Rất nhiều bài tứ tuyệt
được Yến Lan viết về sau này dành cho người yêu, tình yêu – nhưng dù có hào hoa
lãng mạn, vẫn một giọng thơ chân thật, sâu kín – rất tinh tế:
“ Em đến xin hồng, hồng
chửa nụ
Hôm nay hồng nở, bóng em xa
Cầm chân bữa trước em không ở
Giờ biết làm sao cầm được hoa?”
( Cầm Chân Em, Cầm Chân Hoa)
Với người bạn đời – là
người yêu đầu tiên, nhà thơ đã dành trọn hồn thơ chung thủy gắn bó đến cuối đời
– bằng lời tâm tình rất đằm thắm trong bài “ Khắng Khít" ( viết năm 1965) để
tặng bà như một món quà ngày sinh nhật:
“Em có cháu gọi bà
Gọi em anh vẫn gọi
Năm mươi tuổi, ai già
Chúng mình sao trẻ vậy.
Anh đọc truyện em nghe
Em muốn em là Tấm
Lòng Hoàng tử anh mê
Từ buổi – đầu em lấm.
Em gọt khế cuối mùa
Anh cắn từng lát nhỏ
Ôi, quả thường vị chua
Mà mọng nhiều thương nhớ.
…Bao bận anh lên đường,
Ngày về thường sai hẹn
Giữa lúc em dỗi hờn
Thư anh liền kịp đến…”
Nhà thơ Yến Lan có 06
người con : Ba trai và ba gái. Trong 21 năm chiến tranh, đất nước tạm thời bị
chia cắt, đồng lương rất hạn chế của hai vợ chồng ( ông công tác tại nhà XB Văn
Học, bà công tác ở cửa hàng Thuốc Bắc khu phố ) – đời sống thiếu thốn, nhưng ông
đã dành trọn cho các con mọi tiện nghi – thậm chí, tự sáng chế ra các món đồ
cần thiết cho gia đình mà không tốn tiền ( như bàn ủi, bếp nấu, vật dụng thường
ngày. (*)Ông đã viết nhiều bài thơ về các con, dành tặng cho các con thân yêu –
đó là món quà của người thi sĩ nghèo, kém may mắn.
Ông có hai người con đi bộ đội – mỗi lần nhận được thư
con từ chiến trường gởi về - nhà thơ đã tâm sự:
“ Ngày tháng không đề,
địa chỉ không
Nửa trang chỉ đọc được đôi dòng
Biết con chữ viết trong mưa núi
Mà ấm lòng cha suốt tiết đông”
Lâm Bích Thủy, Tú Thủy
đều dồn về học ở trường học sinh Miền Nam số 13 ở Thái Bình – một lần tìm đến
thăm các con, ông đã viết bài “ Bẻ Liễu” ( 1956 ) để tặng cho cô con gái nhỏ Tú
Thủy – bởi đó là món quà duy nhất:
“ Đi qua đường Tân Đệ
Thái Bình
Cha bẻ cho con cành dương liễu xanh
Hỡi con gái lớn theo lòng Hà Nội
Vườn phố con đi chen đầy cây cối
Có lạ gì một nhánh liễu rung rinh
Bẻ cho con nhành liễu xanh biếc
Trên quãng đường xưa lên bờ tập kết
Cha dẫn con về một lớp học Miền Nam
Tạm ở Thái Bình giữa xóm mái tranh lam(..)”
Nhà thơ Yến Lan được
nhiều bạn thơ văn quý mến vì tấm lòng chơn chất, trong sáng, sẻ chia. Ông đã
từng đùm bọc Quang Dũng như một người em, chia sẻ cùng Văn Cao, hết lòng với
Hoàng Cầm, Quách Tạo, Nguyễn Đình, Trinh Đường, Nguyễn Thành Long(..). Tâm tình
này được ông ghi lại trong bài tứ tuyệt rất da diết:
“ Sang canh, bìm bịp kêu
ngoài lán
Đất mới, nhà đơn – lạ láng giềng
Nhớ bạn nửa đêm ra tựa liếp
Khuyết cong mây bạc ngấn trăng in"
Một đoạn trong tập hồi
ký “ Yến lan, Nhớ Mãi Về Anh”, bà Nguyễn Thị Lan đã ghi lại: “ (..) Cuối năm
1957 anh Lan nhận được 80 đồng tiền nhuận bút tập “ Những Ngọn Đèn", anh Lan
đã san sẻ cho anh Dũng một nửa để mua gạo. Hai người như có một nổi niềm, một
tâm sự nào đó giống nhau, anh Lan thì thương cái hiền lành của anh Dũng, còn
anh Dũng cảm thông sự không may của anh Lan. Tặng Quang Dũng, anh Lan viết:
“ Tàu điện xa dần phía
chợ Mơ
Phòng văn được phút lặng không ngờ
Họa mi ai nhốt sau lồng trúc
Vọng tiếng rừng sang góp với thơ”
( Họa Mi Trong Lồng – th10/ 1973)
Quang Dũng đã vẽ tặng
Yến Lan bức tranh “ Đường Làng” – và, Yến Lan đã đề thơ:
“ Treo lâu sơn thủy cành
thu suông
Bụi bặm thời gian đã phủ dồn
Để đó vào ra không kẻ ngắm
Cất đi còn ngại mặt tường trơn!”
Nhà thơ Yến Lan viết
rất nhiều thơ cho tình bằng hữu, tình đồng hương – mỗi bài, một tâm sự một nỗi
niềm. Tôi thích nhất bài thơ “Uống Rượu Với Bạn Đồng Hương” vì tiêu biểu được
cho nhân cách, cho cái tình, và cho cả phong thái an nhiên của nhà thơ trước mọi
thăng trầm và bất hạnh của cuộc đời ông:
“ Thường ngày ít hay
rượu
Giờ cầm chén với anh
Khuấy men nồng chuyện cũ
Cho mình gặp lại mình
Nào rót nữa, uống đi
Nguồn say còn lai láng
Chén nhớ hãy rót đầy
Chén mừng đừng để cạn…
…Giá có giọng hát tươi
Ta cất rung trời đất
Được giải hết niềm vui
Lời say thường vốn thật
Kìa mặt trăng đêm nay
Tựa yên thành cửa sổ
Hẳn vì thấy ta say
Kê gối vào giấc ngủ”
Và bài tứ tuyệt “ Tiếng Chuông Xóm Núi”, một sự hòa quyện nhớ
thương quê nhà da diết giữa Đạo và Đời :
“ Ghé thăm chùa cổ, gặp
Sư già
Nhận khách đồng hương, kể chuyện nhà
Xóm núi chiều nay kinh kệ vắng
Lòng Sư còn bận nhớ quê xa !”
Nhà thơ Yến Lan đã viết
những bài thơ về quê hương ông, được tất cả ngưỡng mộ từ những năm đầu thế kỷ
20. Bài “ Bến My Lăng” và 2 bài thơ “ Bình Định 1935” - “ Bình Định 1945” là
những bài thơ bất hủ trong sự nghiệp thơ ca đồ sộ của ông ( 10 tác phẩm đã được
xuất bản, trong đó có 2 kịch thơ, một truyện thơ - và nhiều truyện ngắn và thơ
còn trong di cảo chưa có hoàn cảnh thuận tiện để giới thiệu ) – đã chứng tỏ rất
hùng hồn – suốt cuộc đời ông đã hiến dâng cho Thơ, cho Quê Nhà, cho Tình Người, và cho Cuộc Sống đến hơi thở cuối vào ngày 5 tháng10 năm 1998 trên quê hương Bình
Định của ông.
Nhân cách ngời sáng của ông đã có nhiều dịp chứng tỏ -
ngay trong đời sống khốn khó, ngay trong những thử thách gian nguy – mà câu
chuyện ông đã một mình đi sau đám tang của nhà văn Phan Khôi (chủ nhóm NVGP )
ở Hà Nội ngày nào để đưa tiễn một người bạn Văn đang bị lên án, và xa lánh!
Ghi lại những dòng cảm nhận hôm nay về nhà thơ Yến Lan
với tôi là một việc làm quá to lớn – nhưng tôi chỉ mong tỏ chút tình của người
cháu nhỏ đồng hương đã hết lòng tri ân và ngưỡng mộ ông – nhà thơ Yến Lan kính
yêu của mọi thời đại, với một nhân cách sáng ngời…
Trần Minh
Nguyệt
(*)Mời đọc thêm “ Yến Lan,
Nhớ Mãi Về Anh" của bà Nguyễn Thị Lan và Hồi ký “ Về Người Cha là Thi Sĩ" của
Lâm Bích Thủy).
Cùng tác giả T.M.N
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét