Vùng tôi ở, loài cối xay vẫn thường ra hoa vào những ngày hè gay
gắt nắng. Hoa cối xay màu vàng, vàng đến mơ mộng, hão huyền đến đê mê trời đất.
Những rặng cối xay bao quanh và trải dài ngôi làng nhỏ vùng trung du nắng gió.
Người dân quê tôi hình như cũng không hẳn là yêu loại hoa ngông nghênh đó, cũng
không phải là ghét bỏ nó. Nhưng có lẽ là họ sợ. Một nỗi sợ mơ hồ, xa xăm
nào đó…
Mùa cối xay vàng trẻ con chơi chốn tìm bỏ quên thời gian đã về ngủ
sau đỉnh núi, trai gái hẹn hò quên trăng đã lên đến đỉnh đầu. Người lớn đêm
trằn trọc không ngủ được, chờ một tiếng kẹt cửa, một đêm tối trời, một bước
chân ai đó… Mùa cối xay vàng nào người đàn bà điên ấy cũng bà chạy dọc triền
hoa gào tên một người nào đó.
Người ta gọi vùng tôi bằng cái tên “hoa cối xay vàng”.
* * *
15 năm trước làng tôi còn trẻ lắm, những đôi vợ chồng trẻ dắt díu
nhau về đây vỡ đất, khai hoang dựng nhà, trồng cây gây giống. Những đứa trẻ
được sinh ra trong cùng một năm, bú hết sữa bà mẹ này đến sữa bà mẹ khác. Tiếng
ru quanh năm vang vọng núi đồi nghe vừa vui vừa buồn một nỗi niềm xa vắng. Làng
tôi ai cũng nghèo, vậy mà trẻ con nhà ai cũng thi nhau ốm. Vừa không có tiền
cho con đi bệnh viện, vừa đường xá xa xôi lại thời bấy giờ thuốc thang chưa có
là bao nên những đứa trẻ mọc nhọt mụn đều được hái lá cây rừng tắm gội. Cây ba
gạc, cây xà phòng là thuốc chữa hữu hiệu cho lũ trẻ nơi đây nhưng chỉ duy đứa
bé gái con chị Nhi cuối xóm là bệnh không thuyên giảm. Chị đã nhờ những người
đàn ông trong làng đưa đi mấy trạm xá trong huyện nhưng thuốc thang vẫn không
khỏi. Chị Nhi buồn lắm, suốt ngày chỉ ôm con trên tay hát ru những lời buồn vời
vợi như ai oán như trách móc. Đứa bé ấy không có cha, cũng không ai biết cha nó
là ai, chỉ biết rằng từ khi chị Nhi đến nhập vào cái làng này thì trên tay chị
đã bế một đứa trẻ. Đứa trẻ ấy khác tất cả những đứa trẻ khác, cả ngày nó không
khóc cười, cứ thiu thiu ngủ, thi thoảng lại giật mình, thấy người lạ nó úp mặt
vào ngực mẹ. Người làng bảo đứa trẻ mắc tính sợ người, lạ thay đứa trẻ con nào
trong làng cũng rất thích gần đứa trẻ không cha ấy.
Chị Nhi khóc thương con đến rạc cả người như loài ve đã cuối hè
thì người đàn ông ấy xuất hiện trong làng của tôi vào sáng sớm cái ngày đầy
ngột ngạt. Gió và nắng, hai thứ ấy dường như không thể thiếu nó ở đây được, mà
nếu thiếu nó thì còn gọi gì là Trung du nữa. Và dường như chúng tôi cũng chỉ
chấp nhận những khuôn mặt người đã quen, những thứ đã có nên sự xuất hiện của
người đàn ông lạ làm xáo trộn cuộc sống của tất cả chúng tôi. Trẻ con tuy chưa
biết đi, biết nói, mắt cũng nháo nhác nhìn ngó xung quanh. Đàn bà vừa nựng con
vừa thở dài, chỉ có đám đàn ông là hồ hởi chuyện trò, hỏi han người lạ mặt.
Người đàn ông ấy cũng cao to khác thường, râu rậm, lông ngực rậm
như người rừng, tiếng cười thì vang và ấm lắm. Tôi nhớ rõ cái ấn tượng đầu tiên
khi tôi nhìn thấy hắn là tôi thấy tin và yêu hắn ngay. Thứ tình yêu của những
người đàn ông trong cái làng nghèo nàn cần che chở cho đàn bà và lũ trẻ. Người
đàn ông lạ mặt đi quanh làng một vòng rồi dừng lại bên chị Nhi và đứa trẻ không
có cha, người lạ mặt bảo: “Nóng quá lên phát ung nhọt đây mà. Không sao, uống
thuốc là sẽ khỏi”. Rồi hắn đi đúng bốn ngày sau thì trở về, trên tay vác một ôm
lá rừng và một nắm hạt lạ rắc từ đầu làng đến cuối làng. Hắn bảo với tôi:
- Loài cây này hoa đẹp lắm, lại uống mát, có thể hạ nhiệt và chữa
cả bênh thận nữa.
Tôi ậm ừ hỏi hắn:
- Đi đâu mấy ngày qua vậy?
Hắn bảo:
- Đi tìm cây thuốc.
Độ nửa tháng sau thì đứa bé con chị Nhi khỏi bệnh, da non đã mọc
trên những nốt ung nhọt cũ. Nó đã biết cười, đã huơ huơ tay chân trêu đùa người
khác. Chị Nhi bế con dọc làng suốt một ngày, gặp ai chị cũng khoe:
- Con tôi khỏe lại rồi. Ơn trời quá!
Nói là ơn trời nhưng tôi biết người đàn bà ấy mang ơn người đàn
ông xa lạ lắm. Hắn cũng vui. Hắn huýt sao vang vang rồi lên rừng chặt cây chọn
chỗ đất trống dựng nhà. Tôi tưởng mình đã có một người hàng xóm tốt nhưng ai
ngờ nhà chưa dựng nhà xong thì hắn đã bỏ đi. Hắn bỏ đi im hơi lặng tiếng, đột
nhiên tôi thấy buồn, cho đến tận bây giờ vẫn buồn. Còn chị Nhi thì cứ lẩn thà
lẩn thẩn như người mất của, những người đàn bà trong làng lại thở dài. Đứa trẻ
không cha lại sinh ra hay khóc, khóc suốt ngày đêm, khóc đến xanh xao, xót
ruột.
Lúc ấy loài cây mà người đàn ông lạ mặt mang về đã nhú mầm, lá nó
tròn tròn. Chúng tôi nhắc đàn bà trong làng đi lại đừng dẵm nát chúng. Họ ậm ừ
cho qua chuyện. Nửa năm sau thì hoa nở vàng cả vùng trời, vàng đến u mê, hoang
hoải…
Những người ở miền xuôi lên mua lạc bảo đấy là loài cối xay. Làng
tôi gọi mùa nắng là mùa hoa cối xay vàng.
*
* *
Khi những đứa trẻ trong làng đã đi, biết chạy lon ton, chúng tụ
nhau thành từng tốp nhỏ choành chọe, bấu véo rồi dỗ dành nhau. Người lớn không
có thời gian dành cho chúng, đàn bà phải ra đồng cấy lúa, trồng ngô, đàn ông
lên rừng đào hố trồng cây. Việc ấy như là cái lệ.
Đứa bé con nhà chị Nhi hay tha thẩn chơi một mình, cứ vào mùa hoa
cối xay vàng là nó lại chạy đi bắt bướm. Chị Nhi thân gái một mình, công việc
rừng ruộng lại càng vất vả hơn. Nên mỗi ngày chỉ được gần con vào lúc buổi trưa
và buổi tôi. Ngày nào chị cũng hôn con gái ba lần, tắm giặt thay quần áo cho nó
một lần nhưng hình ảnh đứa bé lúc nào cũng hiển hiện trong tâm trí chị. Chị là
người đàn bà chẳng còn gì ngoài đứa con nhưng hình như chị còn cần nhiều hơn
thế…
Vào những đêm trăng lồ lộ sáng, chị một mình tha thẩn ra ngoài bãi
hoa vàng. Chị ngóng về phía con đường xa xa như đang ngóng một người thân có
hẹn sẽ trở về vào đúng ngày ấy, đêm ấy và vào giây phút ấy. Tóc chị buông dài,
vướng víu vào rặng hoa vàng lắc lơ. Chị đi… Cứ đi… Đến khi đứa trẻ tỉnh dậy
giữa đêm không thấy mẹ đâu thì khóc toáng lên. Khi ấy chị mới vội vã trở về.
Trăng đã ngấm vàng mái tóc. Chị lại ru hời, đâu đó các bà mẹ cũng ru hời. Buồn
hoang vắng…
Trăng đợi ai trăng chẳng chịu tàn
Lời ru đợi ai ru mòn đêm vắng…
Chỉ có những người đàn ông chúng tôi là chẳng mấy bận tâm, công
việc mệt nhọc hàng ngày gần như đã vắt kiệt sức, chưa kể những cuộc ái ân chồng
vợ. Đàn bà thì kêu ca: “Sao mà đêm dài đến vậy?”, còn đàn ông thì bảo: “Vừa mới
ngủ cái, mở mắt ra đã sáng rồi”. Mà đã thấy mặt trời là lại phải vác cuốc lên
rừng làm việc. Nên nhiều khi đàn ông không hiểu vì sao đàn bà lại dai sức đến
vậy khi cả đêm lẫn ngày, hầu như lúc nào mắt họ cũng nhìn về phía xa xôi nào
đấy, lòng chờ mong một điều gì đấy. Và người đàn bà nào trong làng hoa cối xay
vàng cũng đều giống nhau ở một điểm là lúc nào cũng thấy họ thở dài. Đôi khi lũ
trẻ con cũng thở dài, chúng ngồi ngẩn ngơ trên bãi cỏ đã úa vàng, ở nơi ấy đêm
về loài dế ri rỉ khóc.
* * *
Không hiểu ở đâu mà nhiều người ăn xin kéo về làng tôi đến vậy. Họ
bảo họ ở miền xuôi, do ngập lụt mất hết nhà cửa, mùa màng lên phải đi xin ăn.
Nhưng đàn bà làng tôi nói đôi khi họ gặp cả những người giọng lơ lớ miền Trung.
Tôi bảo:
- Lẽ nào lại vậy?
Chị Nhi cười, chẳng hiểu chị cười gì. Nhưng vợ tôi thì bảo:
- Đừng quá tin người, tôi thấy các làng khác bảo là những người ấy
toàn đi xin về xây nhà thôi, chứ họ chẳng nghèo khổ gì đâu.
Chị Nhi lại cười. Những người đàn bà lắc đầu phiền muộn. Những
người đàn ông vẫn rít thuốc lào sòng sọc, như thế cuộc đời này chẳng có gì đáng
làm họ bận tâm bằng ngày ăn ba bữa, làm quần quật cả ngày và bao bọc được đàn
bà, trẻ con trong xóm hoa cối xay vàng. Thế nên đàn ông bảo:
- Họ đến ngửa tay xin mình, nếu trong nhà còn có thì cứ cho. Không
cho nhiều thì cho ít.
Đàn bà làng tôi lành hiền, đàn ông bảo gì họ cũng nghe. Có phải vì
thế mà làng tôi lúc nào cũng bình lặng đến nhàm chán hay không nhỉ?
Ngay cả vào buổi chiều hôm ấy. Cái chiều chị Nhi khóc gọi đứa con
mải mê chơi trong những bãi hoa vàng rồi mất hút. Đứa trẻ không cha lúc nào
cũng chỉ thích tha thẩn chơi một mình, trò chơi trốn tìm với cỏ cây, đất trời.
Đứa bé ít khóc, ít cười. Mồm lúc nào cũng chỉ gọi “hoa, hoa”, còn vài tháng là
nó tròn bốn tuổi. Chúng tôi đã lùng sục đến bới nát cả cánh đồng hoa vàng,
những người đàn bà gọi khản giọng vào khoảng không bất tận. Riêng những người
xin ăn thì cúi mặt, lẳng lặng đi ra khỏi làng. Từ đấy không thấy họ quay lại
nữa.
Chị Nhi thì nửa tỉnh nửa điên, ngày cứ đi ra cánh đồng bứt hoa
vàng rải xuống, đêm lại hát ru con. Tay chị
như ầu ơ bế bồng một hình hài nhẹ hẫng như cơn gió. Người đàn bà nào trong làng
nhìn thấy chị cũng quay đi lau nước mắt. Lũ đàn ông chúng tôi thì im lặng.
Bỗng nhiên
sao thấy ghét cái màu vàng của hoa cối xay đến thế.
Chị Nhi vẫn mòn mỏi những tuần trăng. Người thì bảo chị đi tìm
con. Người lại bảo chị tìm cả đứa con cả người đàn ông ấy. Chắc hẳn nếu tôi là
chị, tôi cũng chẳng biết phải đi tìm điều gì, và chờ đợi cái gì nữa. Chỉ biết
rằng cái làng quê nhỏ bé của tôi ngày càng buồn hơn nữa, nhất là vào những
tháng hè, khi hoa cối xay đã nở vàng.
Lũ trẻ con sau này lớn lên, một phần thì chúng sợ một phần chúng
lại rất thương đàn bà dở điên dở dại ấy. Chúng suốt ngày đi theo chị Nhi tha
thẩn trên cánh đồng, đứa nào bạo dạn thì lại gần, có những đứa chỉ dám bám theo
đằng xa. Cứ thấy chị quay lại là chúng lại chạy bán sống bán chết. Những ngày
mưa chị cũng đòi đi nhưng lũ trẻ giữ lại. Chị lừ mắt bảo:
- Bỏ tao ra chứ, tao đi đón con tao không nó bị ướt hết bây giờ?
Bọn trẻ bảo:
- Con bà mất rồi còn đâu nữa.
Chị lặng người một lúc rồi ôm mặt khóc tu tu, dỗ thế nào cũng không
chịu nín, lũ trẻ đành phải dắt chị đi giữa cơn mưa. Đàn bà trong làng tối về
dạy con:
- Ai cho phép chúng mày dám hỗn với cô Nhi thế hả? Từ mai phải gọi
là “cô Nhi” biết chưa? Đứa nào ăn nói lung tung về là ăn đòn ngay đấy.
Lũ trẻ phung phịu:
- Người điên thì có biết gì đâu, đến bốc cả cứt gà cho vào mồm
thì, gọi làm sao mà chả được.
Đàn bà quặn lòng đau.
Lũ trẻ không biết rằng ngày xưa chúng đã từng ngậm bầu sữa người
đàn bà điên ấy khi sữa mẹ chúng đã cạn khô vì thiếu thốn.
* * *
Trăng mùa này lạnh và buồn lắm. Hoa vàng đã tàn từ rất lâu rồi mà
chị Nhi vẫn đi tìm dưới màu vàng huyễn hoặc. Nhiều đêm tôi giật mình tỉnh dậy
vì một tiếng cười ma quái như phát ra từ một thế giới nào xa xăm lắm. Chứ không
phải từ cái thế giới mà chúng tôi đang sống, cái thế giới chỉ toàn là hiện
thực, làm ăn, ngủ nghỉ, và yêu thương đôi khi cũng là một cái gì đó ngượng
ngùng.
Tôi đi lang thang ra ngõ. Ngõ sáng nhạt nhòa. Tôi cứ đi theo cái
ánh sáng huyễn hoặc ấy chẳng biết là để đi đâu và đi tìm điều gì trong một đêm
mất ngủ. Tôi nhìn thấy chị, chị mặc quần áo trắng tinh, thứ màu sắc xa lạ nếu
không muốn nói là xa xỉ giữa miền quê lao động. Chị đi như lướt giữa cánh đồng
trăng, tay chị như đang bứt hoa vàng, mắt chị long lanh hạnh phúc như phía
trước chị là đứa con gái bé bỏng và người đàn ông xa lạ năm nào. Chưa bao giờ
tôi thấy người đàn bà khốn khổ ấy lại ánh lên niềm vui đến thế.
Chị cứ đi dưới trăng
Tôi cứ đi dưới trăng
Trăng cứ sáng
Bỗng tiếng người đàn bà nào ru con. Tôi giật mình quay lại. Mùa
trăng vẫn còn dài lắm…Mà làng hoa vàng không có người mẹ nào mới sinh con nhưng
chẳng hiểu sao đêm trăng nào cũng có tiếng ru gọi tôi về.
Bỗng một đêm tôi nhìn thấy người đàn ông xa lạ hôm nào quay trở
về. Tôi không dám lại gần. Đêm ấy là một đêm trăng khuyết. Chị vẫn mặc bộ áo
màu trắng muốt, chị chạy về phía ấy. Đêm ấy là đêm duy nhất kể từ khi chị điên
dân làng không nghe thấy tiếng chị cười. Chỉ riêng tôi và người đàn ông ấy biết
rằng chị khóc.
* * *
Sau đêm trăng ấy những tưởng cái làng nhỏ bé của tôi sẽ ầm ĩ lên
bởi sự trở lại của một người đã không hẹn mà đến, không chào mà đi. Nhưng hắn
đã biến mất khỏi đêm trăng bỏ lại người đàn bà điên dại. Đôi lúc tôi không nghĩ
là chị điên thật, tôi những tưởng sự điên dại ấy chỉ là cái vỏ bọc để chị dấu
kín cuộc đời với những bí mật của riêng mình. Nhưng một câu hỏi vẫn mãi ám ảnh
trong tâm trí tôi về cái mùa đói năm ấy, về đứa con gái không có cha bị mất
tích, và những người ăn xin đồng loạt bỏ đi.
Tôi nhớ có người ở làng khác bảo đã nghe thấy tiếng trẻ con khóc
trong bị một người ăn xin. Có người lại bảo sau cơn lũ nhiều nhà mất người
thân, mất hết cả con cái nên bắt cóc trẻ con về nuôi. Có thể chị đã không nghe
thấy những câu chuyện ấy.
Dù bây giờ không phải là mùa hè, hoa cối xay đang ngủ đông giữa
cánh đồng nhưng đêm nào tỉnh giấc tôi cũng thấy cả một bầu trời hoa cối xay
vàng. Vàng đến mụ mị và huyễn hoặc…
15/10/2009
Vũ Thị Huyền Trang
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét