Nhà văn Mang Viên Long
Ngồi ở chiếc bàn dưới gốc cây hoa sứ
của quán café “Lối Về” nhìn ra con
sông tĩnh lặng mầu xanh thẩm phía bên kia kè đá; những cồn cát vàng hiền từ
ngoằn ngoèo phía dưới với những khóm cỏ hoe vàng, con đập cao mầu trắng như con
đường nối liền hai bờ sông, từng đoạn thác nước đổ lấp lánh dưới ánh nắng buổi
sớm, đàn cò chao nghiêng lượn lờ trên nền trời xanh trong từ lũy tre dài bao
quanh ngôi làng yên bình và im lìm – lần
nào đối diện với cái khung cảnh ấy - Đệ cũng cảm thấy có thêm điều mới lạ như
từ trong sâu khuất của lòng mình có thêm một niềm an vui mơ hồ đang dấy lên, mở
rộng - mong manh nhưng lan tỏa, dần dần che khuất nỗi buồn của đời sống cô
quạnh mà đã gần ba năm anh ngơ ngác lặng lờ nơi căn nhà ẩm mốc và trống trải
của dì Cát khi trở về lại nơi đây. Đệ đã trở về nơi đây – quanh quẩn trong ngôi
nhà dì Cát như một sự cùng đường - một bến bờ phải neo lại cho đám rong bèo
bồng bềnh truân chuyên …
Từ ngày cùng Tiểu Hương ngồi vào chiếc
bàn nầy bên tách café buổi sớm chủ nhật còn lãng đãng sương mù – nhìn dòng sông
trời mây quang đãng tĩnh lặng, chiếc cầu cũ mười lăm nhịp trơ vơ hoang phế một
thời dập dìu ngựa xe, một thời khói lửa đạn bom thù hận -- Đệ đã cảm thấy mình
được gần gũi hơn với một chút trời xanh, một chút nắng ấm, một chút hy vọng –
nên vẫn thường lui tới quán một mình khi Tiểu Hương còn ở thành phố. Thức dậy
sớm – sau lúc ra vườn chăm sóc thửa rau,
cụm cây Trinh nữ hoàng cung, hàng cây đu đủ,
giàn bầu bí, mấy khóm hoa – Đệ hối hả tìm đến chiếc quán đơn sơ, trống
trải bên con sông này như tìm về chốn an bình chờ đợi cho dù đôi khi bước chân
vào khoảng sân thì sự yên vắng vẫn mênh mông, và tiếng nước từ con đập phía
trên rào rào vang lại đều đều, êm ả như lời ru thủy chung cần mẫn bên làng quê
còn say giấc ngủ.
Gần ba năm – hơn một ngàn ngày đêm
nhìn thời gian lờ lửng trôi qua đời mình, Đệ càng nhận ra nỗi cô đơn vô vị tẻ
lạnh của cuộc sống phù du ngắn ngủi –
nhưng ý tưởng sẽ viết tập “ Hồi Ký Một
Đời Người” đã bao lần thôi thúc trong anh như nỗi ám ảnh không rời vẫn chưa
có thể bắt đầu. Đệ đã quyết định rời Sài Gòn về lại quê ngoại khi nhận được kết
quả xét nghiệm, chính cũng vì sự thôi thúc réo gọi về một tập hồi ký sẽ hình thành như niềm an
ủi, niềm vui cuối – trước khi anh rời khỏi cõi tạm nầy vì bệnh ung thư dạ dày
vào cuối giai đoạn một. Thật ra, Đệ cũng đã bắt đầu nhiều lần – đã viết những
trang đầu vào cuốn vở dày mang theo vào những lúc không thể ngôi yên chịu đựng
nỗi cô quạnh hiu hắt quanh quẩn bên mình; nhưng, vài hôm sau – lại xé bỏ! Đọc
lại, anh cảm thấy những dòng chữ trở nên khô cứng, sao mà trần trụi vô nghĩa
đến thế? Những khổ đau đã quấn vào đòi
anh ngay từ ngày anh vừa mới bước đi chập chững. Khổ đau và lận đận tiếp nối
theo từng bước chân, từng năm tháng bơ vơ. Ngồi mà nhớ lại mọi cuộc truân
chuyên trong căn nhà vắng tênh buồn thãm đìu hiu nầy quả thật quá sức chịu đựng
của Đệ. Bước chân vào ngôi nhà đã bỏ hoang của dì Cát, Đệ đã có cảm giác – ước
mơ của anh về tập hồi ký thật khó thực hiện ở đây. Ngày còn ở Sài Gòn – cảnh
náo nhiệt quay cuồng có làm anh bực bội, không yên – nhưng, nó không dìm anh
xuống sâu dần nỗi cô độc và dằn vặt như ở đây. Sự trống trải đến tê cứng từng
ngày đã khiến Đệ thêm hoang mang, ngơ ngác cho phận mình. Cứ mỗi khi nhìn mặt
trời ngã dần sang hướng Tây - ánh nắng
chiều vàng vọt, cánh đồng vắng người, hoàng hôn thấp dần dưới chân núi mờ xa –
Đệ lại cảm thấy lo sợ! Đêm dài dặt sẽ đến. Bóng tối kín bưng của bao kỷ niệm,
những lo toan, mớ suy tưởng mộng mị chập chùng, sẽ kéo dài theo giấc ngủ rời rạc của anh gần mười hai giờ…
Từ ngày gặp Tiểu Hương – lạ thay,
Đệ đã cảm thấy khung cảnh quanh anh như tươi mát, gần gũi, thân thiết hơn. Anh
bắt đầu nhớ đến những tháng ngày cùng San la cà trên bờ cát dưới chân đập Bẩy
Yển của đoạn sông Côn chảy qua cầu Phụ Ngọc. Nhớ những chiều bơi lội dưới dòng
nước trong mát, những cánh diều chấp chới, những đêm có trăng tắm xong cùng rủ
nhau vào soi bẻ bắp, hay hái dưa gang trộm. Tất cả như vừa mới xảy ra, còn đó
của thời tuổi trẻ hồn nhiên…Và, điều lạ lùng – Đệ đã miệt mài viết trở lại
những trang hồi ký đã xé bỏ - đều đặn năm ngày trong tuần – cho đến bốn giờ
chiều ngày thứ bảy, khi nhìn thấy bóng Tiểu Hương trên chiếc xe Kawaki mầu xanh
thẫm gập ghềnh trên chiếc cầu ván bắt qua dòng mương nhỏ vào làng, thì mới cẩn
trọng xếp lại bỏ vào ngăn tủ sách. Đã
gần nửa năm nay- buổi chiều thứ bảy Tiểu Hương ghé thăm anh quay vòng như chiếc
kim đồng hồ chính xác, khiến Đệ ngày càng tin yêu Tiểu Hương, khuất lấp bao nỗi
ưu tư dằn vặt về nàng. Dù là năm cuối với bao lo toan, bận rộn – nhưng Tiểu Hương
chưa bao giờ sai hẹn vào mỗi sáng sớm chủ nhật nơi chiếc quán nhỏ bên dòng sông
quê dịu hiền này. Nàng không hứa thủy chung. Không thề son sắc. Nhưng cứ nhìn
vào nét mặt như chiếc hoa vạn thọ hiền từ tươi tắn mỗi lần gặp lai, nghe giọng
nói chơn chất nặng tình từ đầu ngõ, và đón nhận từng gói quà nhỏ từ bàn tay
nặng tình của Tiều Hương như ngày nào hân hoan nhận quà từ tay mẹ đi chợ về… (
Đệ vẫn thường nhờ mẹ nàng làm giúp cho hủ muối mè đen, hủ muối đậu phụng hay hủ
tương đặc biệt mà bà thường bán vào những ngày mồng một và rằm – nhờ Tiểu Hương
mang đến vào cuối tuần. )
Tiểu Hương đến bên đời anh rất
tình cờ và khó hiểu - như cơn gió lạ buổi sớm, khi Đệ ghé chợ Cây Bông mua ít
vật dụng cần thiết cho mỗi tuần. Nàng phụ mẹ bên quày hàng nhỏ, bày biện đơn sơ
những thứ lỉnh kỉnh cho người dân ở các làng bên cạnh không có điều kiện về thị
trấn – trong căn lều tranh dựa lưng vào vách nhà hàng xóm. Điều khiến Đệ để mắt
đến Tiểu Hương không hề dính dáng đến một chút tình cảm yêu thương nào, mà do
sự ngạc nhiên – đúng vậy, một nỗi ngạc nhiên như nhìn thấy một con chim lạ vừa
sà xuống một vòng tình cờ trước mắt mình: Nàng có nét mặt đầy đặn, đôi mắt biết
nói, và đôi má có hai “đồng tiền” biết cười! Nàng lầm lũi bên người mẹ già nơi
chiếc quán đủ thứ lỉnh kỉnh (mà rất cần thiết cho đời sống thôn dã) xuềnh xoàng
trong bộ áo quần vải hoa bạc mầu, mái tóc buột túm phía sau bằng sợi dây vải …Lần
gặp hôm ấy – dường như Đệ chỉ nói chuyện với mẹ Tiểu Hương thôi – cũng chỉ là
những chuyện thăm hỏi bâng quơ, những giao hẹn nhờ vã mẹ nàng giúp cho vài món
mà anh không tự làm được để đủ sống trong tuần. Tiểu Hương vừa phụ bán hàng
thay mẹ, vừa lóng tai nghe – thỉnh thoàng quay lại hỏi : “ Anh cũng là dân ở đây sao?” hay “ Anh đã xa quê từ bao giờ? “…Những câu hỏi trống không, như đã thân
tình của Tiểu Hương khiến Đệ cảm thấy có thêm chút niềm vui nơi quê ngoại đã
gần hai mươi năm cách xa…
Khi Đệ vừa được hai tuổi, một lần liều lĩnh
theo chuyến xe buýt Nam Long xuống thị xã để mua vài loại thuốc cho con đang
bệnh nặng – ông Trần - cha Đệ, bị chận ở trạm kiểm soát cầu Bà gi vì không đủ
giấy tờ chứng minh “hợp lệ quân dịch”. Khoảng hai tuần sau – mẹ Đệ được tin ông
đã bị chuyễn lên trung tâm huấn luyện Lam Sơn. Và sau mấy tháng thụ huấn – ông
Trần đã trở về thăm nhà với bộ áo quần rằn ri đính huy hiệu chiếc đầu hổ, mũ bê
rê mầu nâu đỏ. Được gần vợ con một tuần, ông lại vội vã đón xe đò đến trình
diện bổ sung cho một đơn vị ở Pleiku. Trong bốn năm lang bạt khắp vùng núi rừng
cao nguyên – ông Trần chỉ được phép về thăm nhà vài lần (những lần quá nhớ trốn
về một hai hôm không tính). Bà Sương – vợ ông, vẫn miệt mài trong chiếc quán
dựng tạm bên đường để bán các loại xôi ( xôi bắp, đậu phụng, đậu xanh, đậu
đen), gần ngôi trường tiểu học để lo cho Đệ, bù đắp sự thiếu vắng bàn tay chung
lo của chồng trước đây.
Một lần về phép – ông Trần quyết định
ở lại luôn bên gia đình khi vừa thoát chết ở mặt trận Dakto trở về! Cuộc
chiến thảm khốc ngày đêm đã cho ông thấy
rõ giá trị vô giá của đời sống yêu thương bên gia đình nhỏ bé thuở nào. Ông
khao khát sự yên ổn bình thường như tất cả mọi người biết bao! Ông đã bấm bụng chạy vạy nhờ làm lại thẻ căn cước
lớn tuổi tốn kém gần một lượng vàng trong cảnh gia đình đang túng bấn. Yên ổn
bên vợ con được hai năm – ông lại bị
toán kiểm tra “đào binh” đến tận nhà xét hỏi vào giữa đêm, và bắt đi. Lần nầy,
ông bị đưa vào tạm giam ở quân lao Nha Trang chờ ngày ra tòa quân sự vùng 2
chiến thuật. Ở nhà, bà Sương sinh bé gái
– ông Trần nghe tin, giành đặt tên cho con là “Khánh Nhật”. Khánh nhật – ngày
vui, dù còn trong vòng tù tội, và cuộc sống rẩy đầy bất trắc phía trước- ông
vẫn cảm thấy sự có mặt của con là một “ngày
vui” nhất cho đời mình.
Ra tòa, ông Trần được trả về đơn vị
cũ đang có mặt ở vùng Thạch Hãn nóng bỏng đạn bom. Năm đó, Đệ vừa thi đậu vào
lớp sáu trường trung học Đào Duy Từ. Với chiếc xe đạp “đầm” của dì Cát cho mượn
- Đệ đã đi về trong ngày, vì không có điều kiện ở nhà trọ như lũ bạn cùng xã.
Rạng sáng một ngày đầu năm – tiếng súng,
đạn pháo – và cả máy bay đã bất ngờ ùa đến - cày xới cả ngôi làng nhỏ bé của
Đệ. Bà Sương và Khánh Nhật đã bị chết ngay trong ngôi nhà sập đổ vì pháo khi
đang ngủ say. Đệ thoát chết, vì đêm trước đã về ngủ lại nhà dì Cát cho dì
vui! Dì Cát - chỉ một lần không được
toại nguyện khi người yêu học cùng lớp bị động viên nhập ngũ, vừa ra trường với
chiếc lon chuẩn úy còn mới tinh đã bị chết trong trận đụng độ đầu tiên ở chân
đèo Phù Ly; dì không mở lòng với bất cứ ai tìm đến nữa. Dì xinh xắn, dịu hiền
và mời gọi như đóa sen hồng giữa đầm – nhiều ong bướm dập dìu săn đón, nhưng dì
vẫn lặng lẽ chối từ…Có lẽ, tình yêu đầu đời là biến cố lớn nhất và không bao
giờ quên của đời người chăng?
Dì Cát đã thay bà Sương lầm lũi trong
chiếc quán nhỏ bên đường để tiếp tục lo cho Đệ ăn học ở thị xã khi gia đình
nhận được giấy báo của đơn vị cho biết ông Trần đã bị mất tích trong một cuộc
giao tranh kéo dài suốt ba ngày đêm ở Thạch Hãn sau ngày bà Sương và Khánh Nhật
mất chưa được một tuần. May mắn ít khi đến được hai lần, mà tai họa thì luôn
luôn rình rập là viễn cảnh của con người trong cuộc chiến dai dẳng bao năm! Ba
năm ở bậc đệ nhị cấp dù vẫn nhận được phần tiền dành dụm ít ỏi của dì Cát gởi
xuống để trả tiền cơm nhà trọ – Đệ vẫn nhận làm thêm nhiều việc như dạy kèm,
chở thuê học sinh cấp một đi học, và phụ dọn hàng cho các hiệu buôn dọc phố để
trang trải mọi chi phí…
Năm 78 – theo lời khuyên giải tha
thiết của dì Cát – Đệ miễn cường nộp đơn xin thi vào đại học y thành phố như ý
nguyện của cha anh. Phòng nhận đơn tuyển sinh của huyện đã gởi giấy cho gọi anh
đến – yêu cầu chuyển trường thi vì
“diện” của anh – không thể dự thi vào trường này. Đệ viết lại đơn –
chuyển thi vào trường nông nghiệp theo gợi ý của người trường phòng tuyển sinh.
Kết quả Đệ đã đậu vượt điểm chuẩn đến 7 điểm, nhưng một lần nữa – đơn xin cắt
khẩu nhập học của anh bị từ chối vì “Con
của ngụy quân bị mất tích. Lý lịch không rõ ràng”.
Nấn ná ở lại quê được hai năm làm
đủ mọi nghề, mọi việc để kiếm sống – Đệ quyết định xin dì Cát vào Sài Gòn…Hơn
mười năm lưu lạc lận đận nơi phố thị xa lạ rộng lớn rẫy đầy phiền nhiễu – cuối
cùng, Đệ cũng đã được người giám đốc công ty thiết bị xây dựng nơi anh đang làm
thư ký giúp đỡ cho một tờ hộ khẩu ở thành phố. Cùng vào năm ấy – anh thi đậu
vào trường đại học kiến trúc. Người giám đốc tốt bụng vẫn cho anh nhận lương,
theo học– nhưng làm việc vào ban đêm và các ngày nghỉ. Ngày tốt nghiệp, Đệ ưu tiên được nhận làm việc
cho công ty cũ – và được ông giám đốc mai mối cho người cháu gọi bằng chú đang
làm thủ quỹ của công ty ông. Được quen biết Hạnh ngay từ ngày đầu vào làm việc
cho công ty, nhận tháng lương đầu tiên từ tay Hạnh– nên Đệ không cảm thấy đột
ngột và xa lạ. Anh chấp thuận đề nghị của người giám đốc ân nhân năm xưa với hy
vọng sẽ về quê đón dì Cát vào chung sống. Nhưng, chỉ ở bên Đệ được một năm, khi
mọi dự tính chưa định hình rõ ràng –
Hạnh lại được gia đình thu xếp cho đi du học ở Mỹ. Là con duy nhất của gia đình cán bộ cấp cao ở
thành phố - Hạnh luôn được cưng chìu, và ngoan ngoãn đi theo sự dẫn dắt của cha
mẹ như một con cừu non mà không có chút phản ứng cần thiết nào. Hơn ba năm chờ đợi – ba năm có quá nhiều biến
đổi bất hạnh cho anh – trong nỗi đau lớn nhất – là dì Cát qua đồi ở tuổi 56.
Rồi một hôm, Đệ được cha Hạnh mời đến để “thương lượng” về chuyện Hạnh sẽ định
cư lâu dài ở Mỹ - và có thể sẽ xin ly hôn với anh…
Giọng bà Thìn – mẹ Tiểu Hương, trầm
nhỏ, đều đều một cung bậc – như vọng lại từ chốn xa xôi nào của bóng tối ký ức
già cỗi: “ Cậu biết không, ở tuổi mười sáu, tôi đã bước vào cuộc đời khổ
đau – kéo dài hơn hăm mốt năm, và cho đến hôm nay - đã trên sáu mươi sáu tuổi… ”.
Bà kể lại ngày đám cưới của bà được
vội vàng tổ chức ở sân đình làng vào buổi chiều tối với người cán bộ nông hội
huyện, để rồi hai ngày sau – chồng bà được lệnh đi dự cuôc họp khẩn của cán bộ
toàn khu Năm ở Bồng Sơn. Trở về nhà, ông
chỉ có đủ thời gian thu xếp mọi việc gia đình để chuẩn bị chuyến đi xa vào cuối
năm 54 ở bến cảng Qui Nhơn…
Hai mươi mốt năm chờ đợi với bao nhớ
thương và đọa đày của cuộc sống mới; bà vẫn lặng lẽ, cam chịu và mong ngóng tin
ông. Bằng bặt bao năm – bà vẫn không hề nhận được tin tức gì để bám víu hy vọng
đợi chờ (ngoài những “tin đồn” từ những người dân trong xã mách lại) nhưng vẫn
bền lòng son sắc cho đến ngày…
Tháng 8 năm 75 – bà nghe những người
đồng hương từ miền Bắc trở về cho biết chồng bà đã chết năm 67 trên đường vào Nam.
Lần theo sự chỉ dẫn từ những bạn cũ của
chồng năm xưa – năm sau, bà đã tìm ra Hà
Nội để rồi chỉ nhận được tấm giấy ghi nhận ngày tháng năm mất của chồng – “liệt sĩ Nguyễn Văn Ca”…
Ba năm sau, ở tuổi bốn mươi mốt – bà
Sương đã chấp nhận lời cầu hôn của người bạn học năm xưa đã thầm yêu quý bà –
nay đã là một thương binh. Và năm 81 – bà Sương sinh bé Tiểu Hương – lại bắt
đầu một cuộc gian truân mới…
Đệ lặng lẽ châm thêm một điếu thuốc,
lặng lẽ thở khói – nhìn lơ lửng ra con đường vắng vẻ chói chang ánh nắng, khô
khốc, ngộp ngạt của ngày đầu hè. Khu chợ
đã vắng hoe trong nắng. Con đường như cong lên trong cái nóng hừng hực đổ lửa.
Nhìn cảnh chợ hoang vắng, nhìn những mái lều tranh, tôn, vải bạt xiêu vẹo, nhìn
cái trống trải im lìm của hai dãy nhà bên đường – Đệ thở dài: “ Đời thím và em Tiểu Hương cũng khổ thật!
“.
-
Tội nghiệp
con Hương – bà thì thầm, thím có giấy chứng nhận “ gia đình liệt sĩ”, nhưng nó
không được chia sẻ cùng thím chút nào lại còn bị nhìn ngó, cư xử khác thường!
Tình thương yêu đâu thể phân biệt phải không cháu”.
-
Rõ ràng là
vậy rồi! – Đệ bỗng cao giọng, cuộc sống vốn đã có sẵn mầm mống khổ đau – thêm
những phân biệt, thù hằn, chia rẻ - càng làm cho đời người thêm khôn đốn thôi,
thím à! Đệ vừa an ủi bà Thìn, cũng vừa an ủi cho nỗi bất hạnh của chính mình
bấy lâu.
Nhìn bà Thìn đưa chiếc khăn đang vắt ở cổ xuống
lau vội những hạt nước mắt bất chợt lăn dài xuống gò má – Đệ cười:
-
Cuộc đời là
vậy thôi thím ơi! Biết đến bao giờ con người mới hết lòng thù hận, tranh gìành,
để được gần gũi đằm thắm bên nhau …
Bà Thìn ngước lên – thoáng nhìn Đệ, giọng phân
vân:
-
Đời thím
không dài – thím biết, nhưng chỉ lo cho cuộc đời con Tiểu Hương – cháu ạ! –
giọng bà vẫn đều đều đến buồn bã – sau ngày nó ra trường rồi sẽ ra sao?
-
Hơi sức nào
mà thím lo quá xa vậy? – Đệ nhếch cười, rồi đâu cũng vào đấy thôi! Giọng anh to
rõ - như cuộc đời của cháu đây, có khi nào cháu lại tưởng tượng ra được cái
ngày trở về một mình hôm nay?
Bà Thìn im lặng.
Đệ lại lấy thêm một điếu thuốc gắn lên môi như
muốn đốt cháy dần nỗi buồn đau đang thao thức trong anh…
- Em đã ăn sáng chưa vậy?
- Chưa !- Tiểu Hương cười, à…em
không bao giờ ăn sáng mà!
- Xưa nay vẫn vậy sao? Hay vì làm
biếng?
- Dạ ! - Nàng che miệng cười,
nhưng nhìn thấy hai đồng tiền lún vào đôi má đầy đặn thật rõ – Đệ cũng biết
Tiểu Hương đang rất vui – nhà nghèo mà anh!
- Anh có đọc ở đâu đó một lời
khuyên “ Hãy ăn sáng như một ông vua, ăn
trưa như một hoàng tử – và ăn tối như …một ăn mày!” – Đệ cười, có lẽ rất
đúng đó em!
- Ăn sáng và ăn trưa như thế thì …đào đâu ra mà
ăn chứ? – Nàng lại cười thoải mái – lời khuyên ấy có lẽ chỉ thích hợp với người
giàu sang quyền chức thôi anh à!
- Dĩ nhiên là bà con mình còn
nghèo – không được như ông vua, hay hoàng tử thì cũng phải…ăn cho no chứ? Như
em vậy – đau bệnh có “chừa” người nghèo ra không? Hay chỉ để dành tiền mà nuôi
cho bác sĩ thêm mập ra và các hiệu thuốc tây thuốc bắc ngày càng thêm giàu?
Tiểu Hương hớp từng ngụm nhỏ café sữa như
thường lệ- hướng tầm mắt nhìn xa ra phía con đập đang rào rào bọt nước trắng
xóa và khu xóm lặng lẽ bên kia sông. Một vài chiếc xe tải chở đất cát rầm rì
qua cầu bê tông mới được xây lại kiên cố từ năm 2003 bên bờ phía dưới cây cầu
cũ. Đệ nhìn hai chiếc cầu song song – cách nhau khoảng một trăm mét, nhận ra
điều khác biệt: Cây cầu cũ từ thời Pháp thuộc qua bao lần bị phá sập vì bom và
mìn, khẳng khiu, xiêu vẹo, trơ vơ như thân người già nua gầy gò cạn kiệt nguồn
sống… Bỗng Tiểu Hương quay lại – nhìn Đệ, reo lên: “ Anh có thấy con cò ở dưới
chân đập không?”
-
Có! - Vừa
nói, Đệ gắng nhìn theo hường Tiểu Hương– nhưng sao lại chỉ một con?
-
Con cò lẻ
bạn mà anh…
-
Cò thường
bay từng đàn, đi từng tốp, đậu từng cặp…nhưng sao con cò này lại chỉ một mình
vậy?
-
Đâu phải bao
giờ cũng có “đủ đôi, đủ đàn” anh?
-
Trông nó
đứng im, lặng lẽ một mình bên chân đập – thật buồn…
Đệ chợt nhớ đến lời thơ của người
bạn ở Sài Gòn đã nhắn qua máy cho anh (anh ta vẫn thường nhắn thơ cho Đệ chứ
không nhắn tin bình thường) : “ Đất- trời
còn vẫn có đôi/ Cớ sao anh mãi đơn côi – một mình?" – mỉm cười.
-
Anh đang
cười em sao?
-
Không phải!
– Đệ cười lớn, anh cười nhà thơ lãng đãng của anh ở Sài Gòn kia mà! Ngẫm nghĩ
một lúc, anh đọc chậm rãi cho nàng nghe: “ Đất - trời còn vẫn có đôi / Cớ sao
anh mãi đơn côi – một mình!”…
-
Anh đã trả
lời sao?
-
Chưa - Anh
cười hồn nhiên, anh dốt thơ mà! À, hay em trả lời giúp anh đi – cô giáo tương lai!
-
Bằng thơ?
-
Dĩ nhiên
phải vậy rồi – chỉ cần 2 câu thôi! Ông nầy là thi sĩ cơ mà!
Tiểu Hương sau phút đắn đo – nét mặt
nàng bỗng sáng lên:
-
Tạm thời như
vầy – nàng lấy giọng, anh nghe có “lọt lỗ tai” không nhé: “ Lẻ loi bởi tại
duyên trời/ đơn côi vì đất bời bời tang thương!”!
-
Được rồi!
Vậy cũng đúng y chang ý của anh mà!
Đệ không ngờ cô con gái mà bà Thìn nhiều
lần nhắc đến như một “mẫu người khác thường” lại có một tâm hồn rất bình thường
nhạy cảm, tinh tế đến vậy. Thuở bé, khi Tiểu Hương vừa lên ba – cha mất vì vết
thương ở ngực của ông có mảnh đạn (hay bom?) chưa lấy ra được ngày đêm hành hạ
- cô đã làm cho bà rất vất vả để nuôi nấng dạy dỗ vì cái tính lầm lì ngang
bướng hơn cua! Tự mình làm, và quyết định mọi thứ - ngay cả chuyện ăn ngủ, sinh
hoạt, học hành. Anh nhìn Tiểu Hương với
ánh mắt cảm phục lẫn xót thương bùi ngùi.
-
Này em - Đệ
lên tiếng, nghe em đọc thơ – anh chợt nhớ tuần trước cũng tại chiếc quán này,
tình cờ gặp một người đàn ông trung niên cũng đang ngồi nhâm nhi ly café buổi sớm bàn bên kia. Thấy ông ta hí hoáy
viết, rồi đưa mắt nhìn xa xăm lên đập nước, bầu trời, những áng mây…
-
Ông ấy là
ai?
-
Anh chưa
quen biết mà!
-
Rồi thế nào?
-
Lúc sau, ông
ta bỗng nhiên nhìn anh – rồi mỉm cười. rồi sang ngồi cùng bàn với anh…
-
Để làm gì
vậy?
-
Ông ta muốn
đọc cho anh nghe bài thơ mới vừa sáng tác ấy mà!
-
Anh còn nhớ
không?
-
Dĩ nhiên là
ông ta đã tự tay chép lại – gởi tặng anh một tờ..
-
Anh cho em
xem thử - được không?
-
Dĩ nhiên là
được rồi! – Đệ cười thoải mái - Thơ là của chung mà!
Đệ lấy từ túi áo ra quyển lịch bỏ túi, lôi
tờ giấy nhỏ bằng nửa bàn tay được xếp làm bốn, trao cho Tiểu Hương. Nàng vui vẻ
mở tờ giấy ra – chăm chú đọc: “ Em cò lẻ,
anh chắc gì không lẻ?/Đời mãi đi tìm một chút ấm trong mơ/ Rồi chiều đến, em về
hàng tre bến đợi/ Anh mãi buâng khuâng trong gió cuốn mây tròi”(1)
-
Hà hà…dù là
ở đâu- đúng là đời sống luôn luôn cần đến thơ phải không Tiểu Hương?
Nàng im lặng. Khẽ gật đầu…
Tháng
4 năm 2012
MANG
VIÊN LONG
(1) Thơ Bùi Hoài Vân
Chào Nguyễn Hữu Duyên! Cám ơn HQN đã giới thiệu truyện mới của tôi viết về một vùng quê thân thương nhiều kỷ niêm NK và cuộc tình không mai ngày mai nhưng rất sâu đậm & trong sáng...HQN đã luôn cố gắng "là nhịp cầu" của những người " yêu quý thơ văn" - như đã tâm sự! Chúc Duyên & Gia đình & Bằng hữu mọi điều an lành & thành công!
Trả lờiXóaEm cảm ơn anh đã luôn quan tâm và giúp đỡ HQN. Chúc anh nhiều niềm vui và sức khỏe!
Xóa