Có lẽ cho đến khi nhắm
mắt tôi cũng không thể nào tha thứ cho mình. Dù đã bao lần cố tình biện hộ,
nhưng chưa bao giờ tôi tìm ra một lý do chính đáng để tự trấn an. Tôi biết mình
không phải vô ơn, cũng chẳng bạc tình, nhưng không hiểu sao lại vô tình mắc
phải những lỗi lầm như thế để niềm ân hận cứ bám
theo và ray rứt không thôi.
Bao năm qua, cuộc đời đã trải nhiều thăng trầm
dâu bể, tôi đã cố tìm quên. Nhưng mỗi khi ký ức lắng đọng tìm về, tôi lại thấy
lòng mình quặn thắt. Nỗi niềm đó ít khi tôi kể lại cho ai, ngay cả với những
người thân nhất, nhưng hôm nay không hiểu sao tôi lại viết ra đây. Có thể trong
tiềm thức, viết là để giải toả những ẩn ức chìm lắng trong một góc kín đáo nào
đó của tâm tư, nhưng cũng có thể khởi đi từ một ước mong khiêm tốn là có người
đọc nó, để niềm đau của tôi không đến nỗi thành vô ích.
*
Khi anh Quang theo học
năm đầu khoa báo chí Vạn Hạnh thì đất nước đổi thay. Trong biến loạn 1975, gia
đình mất hẳn tin anh. Cả mấy tháng sau đó cũng chẳng ai biết thêm gì. Dù mong
manh ý nghĩ là có một điều bất thường nào đó đã đến với anh, nhưng không ai dám
nghĩ là mất anh vĩnh viễn.
Kinh tế đổi thay, tôi
phải bỏ học đi làm để phụ giúp gia đình. Thời gian sau tôi lấy chồng, sinh con
đẻ cái. Cuộc sống khá chật vật và khó khăn, nhưng tôi vẫn bền gan phấn đấu, rồi
sau đó cũng dần dần ổn định. Thủa ấy không lúc nào là tôi không nghĩ đến Quang,
người anh trai mê sách, mê đến nỗi những khi cúp điện lúc nào anh cũng sẵn một mớ đèn cầy để đốt và đọc thâu đêm.
Nhiều hôm bị ba tôi bắt gặp, bảo tắt đèn đi ngủ, anh lại trùm chăn che ánh sáng
và đọc tiếp nên có lần bị cháy xém một mảng tóc mà ngày thường anh rất nâng
niu. Cuối cùng phải cạo trọc, bị các bạn
gọi là “ đầu đà thi sĩ ”, anh chỉ mỉm cười, không giận, nhưng suốt mấy tháng liền trên đầu anh lúc nào cũng
dán chặt chiếc mũ vải.
Anh Quang vui tính và
rất hay kể chuyện nên tôi thường quấn quít bên anh. Giọng anh trầm trầm, chậm
rãi bắt từ chuyện này sang chuyện khác, chứng tỏ một kiến thức rất dồi dào, thu
lượm được qua hàng nghìn trang sách. Thỉnh thoảng anh chen vào những nhận xét
tế nhị hoặc nói vài câu pha trò làm tôi cười lên vui vẻ. Nhưng những kỷ
niệm tươi đẹp ấy giờ đã tan rồi. Anh
Quang của tôi đã biến mất như bóng chim
tăm cá. Ai biết anh lưu lạc về đâu hay có một bất hạnh kinh khủng nào đã đến
với anh?
Nhưng khi niềm tin và
đợi chờ của gia đình sắp kiệt thì lại có thư về. Anh không nói rõ bằng lý do
nào đã thoát ra ngoại quốc, chỉ kể là thời gian đầu có qua Mỹ nhưng sau vài tháng
anh lại xin chuyển hồ sơ qua Pháp. Trên phong bì có đóng con dấu bưu điện Nice,
một thành phố miền nam nước Pháp, nằm trên bờ biển Côte d’Azur, gần vương quốc
Monaco. Hôm đó nhà tôi tưng bừng mở hội. Phép lạ đến bất ngờ như một sự hồi
sinh.
*
*
*
Những gói quà và tiền
bạc sau đó do anh thường xuyên gửi về đã làm thay đổi cuộc sống của gia đình
tôi. Nhờ tháo vát và bén nhạy với tình hình tôi đã mau chóng tạo vốn và bắt đầu
thành lập một cơ sở kinh doanh nhỏ. Gặp nhiều may mắn và thuận lợi nên công
việc làm ăn của tôi phát triển đều.
Lúc đầu tôi cũng
rất ái ngại vì công sức của Quang. Tôi
định bàn với gia đình khuyên anh ấy nên dành dụm để lo cho mình vì bên ấy đâu
có ai thân thích. Nhưng suy đi, tính lại tôi lại thôi. Thời điểm đó cũng chính
là lúc người ta vượt biên rất nhiều, ai định cư ở nước ngòai có vài tháng cũng
đều gửi hình về, chụp bên cạnh những chiếc xe hơi bóng lộn. Người ta đua nhau
kể chuyện dễ thành công trong xã hội Tây
phương, ai cũng có công ăn việc làm và hái ra tiền.
Thực ra trong thâm tâm
tôi cũng chẳng tin những chuyện này. Ba tôi cũng thường bảo là trong xã hội vật
chất Âu Tây, muốn có tiền phải trả giá đắt chứ không sao dễ được. Nhưng chồng
tôi thì lại nói: “ Anh ấy có trình độ nên chắc dễ thành công hơn người khác- vả
lại bên đó bỏ vài trăm quan mỗi tháng thì có nhằm nhò gì!”. Em dâu tôi cũng
bảo: “Lo gì - Anh ấy tự động gửi chứ chúng ta có đòi hỏi gì đâu. Vả lại, nếu
không dư dả thì chắc anh ấy đã không gửi
đều đều như thế”. Bà chị họ tá túc trong gia đình góp ý: “Cậu ấy biết liệu cơm
gắp mắm chứ! Dì đừng lo hão!” Em trai tôi không nói gì. Mẹ tôi chỉ than: “Tội
nghiệp thân nó!”. Còn tôi dù chưa thật an tâm, nhưng những lời của của chồng và
của em dâu, chị họ đã giúp tôi trấn áp được nỗi lo.
Đúng ra thì qua những
bức thư anh Quang chưa bao giờ than thân trách phận. Thư anh chỉ nói chung
chung, còn thì khuyên vợ chồng tôi ăn ở với mẹ cha sao cho có tình có nghĩa,
yêu thương nhau, cố gắng làm ăn nhưng phải dành thì giờ để dạy cho con cái học
hành, hướng dẫn chúng đi vào con đường tốt. Anh thường nhắc, cái đầu tư lớn
nhất là tạo kiến thức và khả năng cho con cái. Dẫu thời thế có đổi thay, tiền
bạc địa vị có thể mong manh, đảo lộn, nhưng nếu chúng còn sống thì bản lãnh có
được sẽ không bao giờ mất. Nhưng máu kinh doanh đã làm tôi lạc vào mê hồn trận.
Nhìn đâu đâu cũng cảm thấy bị ám ảnh bởi
bạc tiền và danh vọng. Tôi xem những lời khuyên của Quang như là những lời nói
hão huyền, không thực tế.
Anh Quang ít nói về
mình, về những công việc đang làm. Chỉ thỉnh thoảng, và chỉ thỉnh thoảng thôi,
anh mới than buồn vì không có bạn bè để đàm luận văn chương hay tán gẫu chuyện
đời. Người Việt nơi anh sống quá ít, sách vở Tây phương anh đọc khá nhiều nhưng
rất thèm sách tiếng Việt mà lại khó kiếm, có tiền cũng không dễ gì mua được.
Anh ví von như người đã ăn đủ thứ cao lương mỹ vị, nhưng cuối cùng dưa muối
quen thuộc đầu đời vẫn là món ưa thích nhất.
Những dịp tết tôi vẫn
thường gửi thiệp chúc mừng anh. Nhiều lần tôi có ý mua vài số báo xuân, bài vở
phong phú mà ngày xưa anh rất thích...nhưng cuối năm công việc rất nhiều,
chuyện bán buôn, sổ sách, nợ nần vay mượn dập dồn...tôi không có thời gian nên
cuối cùng lại quên đi mất. Sau đó nếu có nhớ, thì chỉ đành chép miệng thở dài.
“Thôi, chờ dịp khác!”.
Công việc kinh doanh của
tôi mỗi ngày một thêm phát triển nhưng tiền bạc và quà cáp anh Quang vẫn thi
thoảng gửi về. Lúc này những món quà ấy không còn cần thiết cho cuộc sống của
tôi như xưa nữa, nhưng nhiều năm qua nhận nó đã trở thành một thói quen. Vả lại
có mất gì đâu! Tôi mặc nhiên chấp nhận và gần như xem đó là một bổn phận không
thoái thoát được của Quang. Thật thế, sau này nghẫm lại tôi vỡ lẽ ra là tất cả
những ân huệ ban đầu, những ơn nghĩa thường xuyên, với thời gian người nhận vô
tình bạc nghĩa như tôi thường xem đó chỉ
là những điều bắt buộc.
Tôi sung sướng thả đầu
óc mình ngụp lặn trong những toan tính làm ăn và tự hào về những thành đạt của
mình. Tôi hãnh diện thấy chồng mình uy nghi trên những chiếc xe đời mới,
luôn cập nhật để nở mặt với đời. Thời buổi
này có tiền mà không chưng ra cho thiên hạ lé mắt thì thà không có còn hơn. Tôi
không còn thì giờ để lo cho con cái nữa. Chồng tôi thì tương đối rảnh rang. Anh
có thừa thì giờ để đi tắm biển, chơi bi da, tennis... và phó thác mọi việc lên
vai tôi. Không hiểu sao anh Quang lại biết chuyện này, và có lần khuyên tôi nên
sắp xếp cho hợp lý nhưng tôi thấy ở Việt Nam chuyện vợ làm chồng chơi là một
chuyện bình thường. Ai cũng thế mà! Mình
cam phận phục tùng chứ có ai bắt buộc đâu. Tuy thế cũng có lần, trong một bức thư, anh Quang
viết bóng gió là tại sao lại có
người không biết tự ái và vô trách nhiệm với vợ con đến thế.
Mấy năm trước, có lẽ do
một chuyện không vừa ý trong gia đình, tôi chợt nhớ đến anh. Nhớ da diết. Tôi
bùi ngùi hồi tưởng đến những kỷ niệm
ngày xưa, rồi thấm thía với nỗi buồn ly biệt. Những câu chuyện cũ anh kể
cho tôi lại lờ mờ hiện đến, đoạn nhớ đoạn không. Tôi lang thang trên bờ biển
một mình rồi chợt nhớ là từ ngày xa cách đến nay tôi chưa hề gửi một món quà dù
rất nhỏ cho anh. Cuống cuồng, tôi bươn bả chạy vào hiệu sách, nhưng không biết
mua gì. Lâu nay tôi nào có thì giờ rớ vào sách vở nên biết đâu mà chọn. May có
cô bán sách là một tay mê truyện, đã
chọn hộ cho tôi bộ tiểu thuyết hai quyển và một tuyển tập truyện ngắn. Tôi hối
hả mang về. Đang định viết cho anh một bức thư dài để gửi kèm thì nhà lại có khách.
Bẵng đi mấy tháng, khi
tình cờ kiểm lại các sổ kinh doanh tôi lại thấy ba quyển sách vẫn nằm yên trong
hộc tủ. Tôi vừa định lôi ra bao bì để đi bưu điện thì chuông cửa reo vang. Khi
ra mở cửa thì thấy ông Vĩnh Phát. Ông là
một thương gia lớn bậc nhất thị xã, đến thăm và để đề nghị một áp phe. Suốt đêm
ấy tôi không tài nào chợp mắt, lòng miên man nghĩ đến những mưu kế làm ăn.
Cứ thế việc kinh doanh
của tôi cứ tiến triển đều và công việc phát triển bao nhiêu tôi lại càng bận
rộn bấy nhiêu. Tôi dành hết thì giờ cho công việc và đầu óc không còn chỗ cho
những điều vặt vãnh khác. Cơm nước và các việc gia chánh tôi đều phó thác cho
người làm. Còn con cái thì năm khi mười hoạ tôi mới ngó ngàng đến và nếu tình
cờ thấy chúng xớ rớ thì cũng chỉ hỏi qua loa về chuyện học hành, nhiều khi chưa
kịp nghe các câu trả lời nhát gừng của chúng tôi đã thả hồn vào những chuyện
làm ăn. Chồng tôi thì vắng mặt suốt ngày. Mới đầu tôi cũng có hỏi nhưng sau cho
đó là một thói quen, một chuyện tự nhiên... mà dẫu có cho là bất thường đi
chăng nữa thì tôi cũng đâu có thì giờ để quan tâm đến.
Anh Quang vẫn gửi quà và
tiền bạc liên tục cho tất cả mọi người trong gia đình. Chồng tôi khen: “Anh
Quang tình cảm thật. Đáng phục! Đâu phải như mấy đứa em nhà anh qua Đức mấy năm
mà chả có thư từ gì”. Em trai tôi thường hay im lặng, tính nó ít nói nhưng đứa
em dâu và bà chị họ thì cũng khen không tiếc lời: “Anh ấy thật chu đáo, không
bỏ sót một ai”, “Người tình cảm như vậy thật hiếm. Hy vọng cậu ấy sẽ kiếm được
một cô vợ đảm đang”.
Phải, cô vợ đảm đang.
Quái thật, anh Quang khá lớn tuổi, nhưng anh chưa bao giờ đề cập đến chuyện
tình cảm của mình. Và chúng tôi cũng ít khi nhắc nhở, nếu có cũng chỉ hỏi qua
loa vì tò mò thôi. Thì giờ đâu! Chuyện mình lo chưa hết, hơi sức đâu lo chuyện
bên Tây. Sau này, khi tất cả mọi chuyện đã qua, xét lại lòng mình tôi thấy vô
cùng hổ thẹn. Có lẽ có một giai đoạn nào đó trong đời chúng tôi đã có lần thầm
mong là anh cứ ở vậy, đừng lập gia đình để có thì giờ lo cho tất cả chúng tôi
trong đại gia đình còn kẹt lại bên này.
Bởi quà cáp và tiền bạc
gửi về đều đặn quá nên chúng tôi cứ nghĩ là anh Quang có cơ sở kinh doanh hái
ra tiền.Và có lẽ do vậy nên anh không bao giờ dám đề cập đến? Nhưng ba tôi
thường trầm ngâm và gạt phăng giả thuyết này: “Thằng Quang là thằng thông minh
và tháo vát nhưng không có máu làm ăn. Nó nặng tình nên hết lòng chứ không có cơ sở gì đâu. Ba
nghĩ đó là mồ hôi của nó”. Người ta hay nói “biết con không ai bằng cha” và dù
không ai dám cãi vì kính trọng cha, nhưng lũ chị em chúng tôi không đứa nào tin.
Lẽ dễ hiểu là chúng tôi không muốn tin điều đó. Vả chăng phải có lý do thầm kín
gì nên anh mới dấu kín chuyện làm ăn của mình chứ. Trong các bức thư ngắn ngủi
gửi cho anh, chồng tôi còn chỉ cho tôi gợi ý một cách khéo léo là cần nhiều vốn
để kinh doanh .
Thời gian sau, cũng là
dịp gần tết, tôi lại tình cờ thấy ba quyển sách nằm chình ình hứng bụi trên góc
tủ. Lần này tôi không định viết thư nữa, thôi thì viết vài hàng trên post card
để gửi kèm cho anh cũng được. Tôi đóng gói và cột giây cẩn thận, nhưng vừa ghi tên
người gửi thì thình lình có khách
đến thăm. Bác Tường, giám đốc sở thuế. Công việc làm ăn của tôi xưa nay tiến
triển cũng là nhờ công ơn bác.
Gần năm sau, ba tôi mất
bất ngờ sau một cơn bạo bệnh. Anh Quang không về kịp. Lúc đó những người vượt
biên chưa được phép về rộng rãi. Anh viết một bức thư thật dài nói lên những bi
thương và đau đớn của mình. Trong đó có một câu mà có lẽ suốt đời tôi cũng sẽ
không sao quên nổi “Nếu phải đổi mười năm
tuổi thọ của anh để một lần từ biệt với
ba anh cũng sẵn lòng”. Rồi sau đó gia đình gần như bặt tin anh. Tôi
biết anh đau xót lắm. Trong gia đình anh gắn bó với ba tôi nhất và hay tâm sự
với ba như một người tri kỷ. Vắng ba, anh không còn ai để tâm sự nữa. Những vấn
đề mà anh quan tâm, về triết lý cao xa, chúng tôi không ai tha thiết nên không
biết viết gì cho anh. Anh đã không còn ai để kể lể tâm tình. Điểm tựa vững nhất
để anh bám vào quê hương đã không còn
nữa. Thư anh có viết thì cũng chỉ vài hàng ngắn ngủi, gượng ép kể chuyện vặt
vãnh khác hẳn nội dung sâu xa như trước. Chỉ một lần duy nhất là anh có than
buồn và đề cập đến chuyện nhờ tôi mua giùm một mảnh đất, hay một ngôi nhà thật
nhỏ, để lúc già anh có thể được về chết trên quê hương. Anh nói lá rụng phải về
cội. Lần ấy tôi xót xa và thương anh vô hạn. Tôi mường tượng hiểu là cái chết
của ba đã xáo động cái mặt hồ yên tĩnh như tấm lòng nhạy cảm của anh.
Rồi những bí ẩn về cuộc
đời tình cảm cuả anh cũng được phơi bày. Một hôm thu xếp lại những tồn tại của
ba, tôi bắt gặp một phong thư anh viết khá dài. Có lẽ ba tôi đã ngấm ngầm dọ
hỏi và như mọi lần, anh đã không ngần ngại tỏ bày với ba những suy tư thầm kín
trong ruột gan mình.
Anh cho biết là anh chưa
bao giờ dám nghĩ đến chuyện lập gia đình. Anh không muốn vướng bận vào những
ràng buộc nào khác, bởi anh còn có bổn phận phải lo cho những người thân còn
kẹt lại Việt Nam. Đời sống bên nhà khó khăn, hiện tại anh là người duy nhất có
khả năng phụ giúp. Anh xem đó như là món
nợ tinh thần đối với những người thân, bởi trong lòng không lúc nào xoá bỏ được
cái mặc cảm tội lỗi đã bỏ rơi gia đình trong lúc gian nan và biến động kinh khủng
nhất. Hãng xưởng bị kiểm kê, nhà cửa, tài sản bị trưng thu, cha già bị giam
hãm... chỉ còn anh là con trai trưởng,
chưa dính dấp gì đến chính trị, không tham gia vào chính quyền cũ, bạn bè
đông...có thể xoay xở và an ủi gia đình thì lúc đó lại cao chạy xa bay, phó mặc
cho mọi người chịu trận. Anh viết cho ba là sẽ không bao giờ dám tạo cho mình
một mái gia đình, vì một khi đã quyết định chia ngọt sẻ bùi với người bạn trăm
năm, anh không thể đã không mang được gì cho người ta mà lại còn buộc người ta
phải trả món nợ của riêng mình...Tôi rơi nước mắt. Quái! cuộc sống đầy những
lọc lừa, lường đảo - đời tôi chỉ thấy người ta quịt nợ chứ chưa thấy ai tình
nguyện nhận nợ như anh! Tôi giữ kín tâm sự này và chỉ kể lại với đứa em trai mà
thôi. Khi nghe chuyện anh nó chỉ yên lặng không nói gì. Nhưng nét buồn hiện lên
trên khuôn mặt hiền từ của cậu ấy còn khổ đau hơn những lời bi thiết nhất.
Việc làm ăn của tôi vẫn
tiến triển khả quan. Chẳng mấy chốc cơ sở làm ăn của tôi đã trở nên một trong
những công ty lớn nhất thành phố. Bạn bè của tôi toàn những kẻ tai to mặt lớn,
loại có máu mặt, đầy quyền thế, nhất hô bá ứng. Tôi bận rộn vô cùng. Liên lạc
đầu này, giao tế đầu kia, tổ chức việc đầu tư này, thi hành kế hoạch nọ. Tôi
làm việc đầu tắt mặt tối mới lo cho xuể những sáng kiến hái ra tiền. Người tôi
gầy rạc đi nhưng tôi thật vô cùng mãn nguyện. Tiền vô như nước. Xung quanh tôi
bao nhiêu người quanh quẩn, như những vệ tinh bay vòng quỹ đạo. Họ sẵn sàng chờ
lệnh tôi và răm rắp tuân hành.
Dạo đó, đôi khi tôi cũng
có nghe một vài tin gián tiếp về Quang. Một người quen sống ở Paris, trong dịp
tháng tám đi nghỉ hè ở miền nam có gặp anh Quang. Ông ta nói lúc này anh
gầy lắm vì phải làm hai việc, vừa tan sở nơi này lại tranh thủ làm thêm
buổi tối ở một cơ quan khác. Anh bận bù đầu . Ông ta có mời anh đi ăn cơm nhưng
anh không hứa chắc và cuối cùng không đến. Chồng tôi không tin, cho là ông ta
ghét nên nói xấu và rủa anh Quang. “Chắc chắn anh ấy có cơ sở làm ăn chứ đi làm công cho người ta thì sao có thể
dư dả để gửi nhiều tiền như thế”. Em dâu tôi cũng cùng một nhận định. Mặc dù
thời gian gần đây ở Việt Nam người ta cũng bắt đầu biết những khó nhọc của
những đồng hương sống ở nước ngoài, nên tôi nghĩ số tiền anh thường gửi đâu
phải là ít ỏi. Nhưng chồng tôi quả quyết: “Khả năng gửi tiền như vậy không thể
là của một người đi làm công. Thằng cha
Thanh láo khoét”. Cô em dâu tôi cũng tán đồng: “ Miệng đời thiệt độc địa! Lâu nay anh ấy cố tình không tiết lộ
công việc chắc cũng có lý do riêng...”. Tôi thật phân vân.
Rồi một hôm khi tình cờ
xếp lại những hồ sơ, giấy má, tôi bắt gặp một gói giấy rơi sau bộ luật pháp
kinh doanh trên kệ sách. Gói giấy màu vàng hình chữ nhật, có cột giây gai thành
chữ thập. Bên góc trái có ghi tên người gửi. Tên tôi. Lạ quá. Có lẽ tôi đã định
gửi mẫu hàng gì cho ai đây rồi bận việc, quên đi. Tôi cố tình moi óc và nghĩ
mãi mà không biết mình định gửi cho nhà buôn nào.
Khi lấy kéo cắt giây thì
bên trong hiện ra ba quyển sách. Trời ơi! Tôi bàng hoàng vì cho đến lúc ấy tôi vẫn chưa gửi 3 quyển sách cho Quang.
Suốt buổi chiều hôm ấy
tôi thẫn thờ như người mất trí. Một chút lương tri còn sót lại và nỗi ân hận
đang âm thầm dày xéo lòng tôi. Thôi, thà muộn còn hơn không. Tôi đập đập một
góc sách bị mối ăn nham nhở lên cạnh bàn
rồi thay giấy gói lại. Suốt đêm tôi không tài nào chợp mắt, lòng tôi nóng như
lửa đốt, chỉ mong đến sáng để gửi sách cho anh. Sáng hôm sau chưa kịp điểm tâm
tôi đã đích thân ra bưu điện. Mãi đến khi làm xong thủ tục gửi bảo đảm, lúc về
nhà lòng tôi mới hân hoan trở lại.
Rồi những ngày sau đó,
công việc dập dồn đã đưa tôi trở lại cường độ cũ. Tôi quay cuồng trong nhịp
điệu đam mê của bạc tiền, danh vọng. Tôi lại quên Quang đi. Nhưng lương tâm của
tôi cũng đã ổn rồi, tôi đã gửi sách cho anh và như thế là món nợ tinh thần với
anh coi như đã trả xong.
Cuối năm đó những may
mắn của đời tôi bỗng nhiên xoay lưng lại. Sau những đợt đầu tư thất bại vì tình
hình thay đổi, cơ sở làm ăn của tôi bắt đầu xuống dốc. Nhưng vố đau đớn nhất
của tôi là số lớn vốn liếng dành dụm được lâu nay đã bị chồng tôi lén lút đem
nướng trên chiếu bạc đỏ đen. Lúc tối cần để xoay xở gỡ gạc tôi lại không còn
một xu dự trử. Hạnh phúc gia đình tôi có nguy cơ bị lung lay. Bất hoà và lo
nghĩ như một mảng lưới đen ngòm phủ chụp
xuống gia đình tôi.
Anh Quang lúc này lại
bặt tin. Quái! Mấy tháng gửi sách chắc đã đến tay rồi sao anh ấy lại không viết
vài hàng để báo cho tôi biết.
Công việc làm ăn của tôi
mỗi ngày mỗi thêm bết bát. Gỡ nhỏ, thua nhỏ; gỡ lớn, mất lớn... Chẳng
bao lâu cơ sở chỉ còn có nợ. Bạn bè kinh doanh ngày xưa, kẻ xa lánh, người rút
vốn, kẻ đòi lại phần hùn. Thậm chí có kẻ còn lợi dụng sự bối rối của tôi để
quịt nợ và lường gạt nữa. Còn những tay chân thân tín, như những vệ tinh thình
lình mất đi hấp lực, rơi lả tả như lá mùa thu. Tôi bơ vơ và trơ trọi ngay trên
chính quê hương mình.
Đến lúc này tôi mới tha
thiết nghĩ đến Quang. Chỉ có anh là điểm tưạ duy nhất còn sót lại của tôi. Vợ
chồng tôi bàn tính rồi hội ý viết một bức thư thật lâm ly cầu cứu, mượn anh một
số tiền để gầy dựng lại. Nhưng thư đi mà chẳng có tin về. Sốt ruột, chồng tôi
nổi cáu: “Bộ thằng chả mất lương tâm rồi sao? Hai mươi năm sống bên đó chắc đã
thành Tây lai rồi. Người gì đâu mà bạc bẽo!”. Lòng tôi nhói đau lên, nhưng tôi
vẫn im lặng, không một lời biện hộ cho Quang.
Rồi một hôm tôi nhận
được một bưu phẩm từ thành phố Nice. Mừng rú lên. Đó là một gói giấy có cột
giây gai. Nhưng lạ quá, tên người gửi lại đề tên tôi. Khi đọc mảnh giấy gửi
kèm của bưu điện tôi mới biết điạ chỉ gửi cho Quang không
còn người nhận nữa.
Thế là thế nào ?
Tôi không biết làm gì
hơn là chờ đợi. Nhưng tin Quang một lần nữa lại bặt vô âm tín. Chồng tôi nóng
ruột, nổi khùng: “Nhất định là thằng chả làm ăn khấm khá nên đi mua villa rồi.
Mới nghe hỏi tiền nên làm bộ trả sách về để dàn cảnh cho dễ trốn đó thôi. Bộ chả tưởng
lấy vải thưa mà che mắt thánh được à? Đúng là đồ ích kỷ và vô trách nhiệm!”. Lòng tôi
hoang mang và vô cùng bối rối.
*
Người đàn bà dừng lại
như để lấy giọng, nhưng mãi thật lâu vẫn không thấy bà lên tiếng. Tôi sốt ruột
nhưng không dám giục, kiên nhẫn chờ bà đọc nốt phần cuối câu chuyện.
- Thú thật viết đến đây
chị như không còn can đảm viết thêm. Bao nhiêu năm dâu bể đã qua, nhưng cứ mỗi
lần ngẫm lại, lòng chị lại buốt đau như có ai vừa cắt từng khúc ruột. Chị đã
muốn đốt đi những trang giấy và chôn kín tâm sự trong lòng, nhưng thời gian đâu
có phải là dòng suối giảm đau.
“Sau đó thì tôi nhận
được tin Quang. Nhưng lần này lại không do anh viết. Tin đó qua trung gian một
người bạn Pháp mà tôi nghĩ là một người bạn gái rất yêu anh. Trên trang thư có
lấm tấm những vòng tròn bằng đồng xu có lẽ đó là những giọt nước mắt giờ đã khô
dòn. Người mà tôi nhờ phiên dịch khó khăn lắm
mới đọc được những giòng chữ nguệch ngoạc và run
rẩy trên trang giấy mỏng.
Đầu mùa đông năm ấy anh
Quang bị sưng phổi nên phải vào bệnh viện. Tháng sau khi đã tạm bình phục, bác
sĩ khuyên anh nên ăn uống và nghỉ ngơi điều độ, cấm hẳn việc làm ban đêm, sợ đi
khuya về lạnh có thể làm bệnh tình tái phát.
Nhưng anh vẫn bướng bỉnh
không nghe. Ra viện anh phải thuê một căn nhà nhỏ và thiếu tiện nghi hơn vì vốn liếng dành dụm
đã chi phí thuốc men, nên không thể trang trải tiền thuê căn nhà cũ vốn không
lấy gì sang cả lắm. Anh vẫn tiếp tục đi
làm hai việc để gửi tiền về phụ giúp
chúng tôi. Sức khoẻ anh suy sụp và
vơi dần như cái chai bị nứt. Một đêm
tháng giêng, khi tan việc thì đã khuya, anh lái xe về nhà, phần mệt mỏi, phần sương mù , trong một cơn buồn ngủ xe lao vào cột điện, lăn mấy
vòng rồi bốc lửa. Bị cột thắt bỡi giây an toàn, xác anh bị cháy thành than.”
Đọc đến đây bà Trâm cuốn
tròn quyển nhật ký cho vào túi xách rồi
đăm đăm nhìn vào khoảng không trước mặt. Dưới những lọn tóc chớm bạc
đang bay bay lòa xòa trên trán là đôi
mắt vô hồn, sâu thăm thẳm. Tôi yên lặng cảm thông nỗi thống khổ của bà. Lòng
tôi xót xa trước những cảnh ngộ trớ trêu của những kiếp người. Thời gian mong
manh hữu hạn nhưng hình như chúng ta không dành cho cuộc sống, cứ mãi chạy theo
những ảo ảnh hão huyền và lầm lạc. Rồi đến khi mất mác, dẫu ân hận vô bờ cũng không làm sao kéo lại.
Sau tiếng thở dài, tôi tò mò hỏi:
- Vậy quyển sách gửi đi
cuối cùng chị vẫn còn giữ?
- Vâng, chị sẽ giữ mãi, để tự nhủ lòng mình.
- Thưa chị, quyển tiểu
thuyết đó tên gì?
- “ Một tấm lòng vàng”
Tôi thấy bà lấy khăn chặm
hai giòng nước mắt vừa ứa ra hai bên má, rồi sau tiếng thở dài bà chép miệng:
“Dù sau này có ai thông cảm và tha thứ cho tôi, nhưng chính tôi lại không thể
tự tha cho mình được.”
Milano, 1998
T.V.D
Vài hàng cuối truyện :
Thưa chị…, câu chuyện mà chị chỉ “viết cho riêng mình”, không muốn cho người đời thóc mách, 8 năm sau “bị” em biên tập lại. Dĩ nhiên là em có thay đổi tính danh và chỉnh lại một vài chi tiết. Nhớ lời chị dặn trong chuyến về thăm Vũng Tàu năm 1990, nên dù hoàn tất đã lâu nhưng em vẫn để yên bản thảo trong hộc tủ.“ Chị “phải” đọc cho em nghe, nếu không chắc sê nổi điên. Nhưng xin em đừng kể lại cho ai .”
Bây giờ dưới lớp bụi thời gian,15 năm qua đã là chứng nhân biết bao thay đổi. Bác gái và chị đều đã qua đời vì bạo bệnh và những người liên quan đã không còn ai sống ở Việt Nam nữa. Chồng chị và các cháu được gia đình bảo lãnh qua Canada, gia đình người em trai sinh sống ở Na Uy còn người chị họ về sau lấy một Việt kiều và hiện giờ định cư ở Mỹ…
Dù không quên lời dặn và không muốn phản bội niềm tin mà chị đã gứi gắm cho mình, nhưng lúc này thì em lại nghĩ rằng câu chuyện trên trang nhật ký đó, trên thực té nó chẳng phải là của riêng ai, mà là một cách sống có thực của một thời, của một giai đọan khó khăn và tình người đảo lộn, nên quyết định gửi bản thảo cho một tạp chí văn chương. Em hy vọng là ở bên kia thế giới chị cũng sẵn sàng chia xẻ với suy nghĩ của em, còn nếu không thì em ngàn lần xin linh hồn chị thiêng liêng thứ lỗi. (tháng 8-2006)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét