Nhà văn Nguyễn Quang Sáng
(Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Hải)
Ở tuổi tám mươi, nhà văn
Nguyễn Quang Sáng vừa hoàn thành ba mươi tập kịch bản phim truyện Khoảnh khắc
Võ Văn Kiệt. Hiếm có nhà văn nào ở tuổi đó còn lặn lội đi về miền quê văn học
của mình nhiều như thế. Ông hay dẫn các đạo diễn “đi chọn cảnh, về cánh đồng
nước hoài”. Ông nói, công việc của mình giờ đây chỉ là làm việc tập trung và
trung thực.
Trước đây nhiều năm,
hình như ông đã từng làm phim về ông Võ Văn Kiệt?
Năm nào thì tôi không
còn nhớ, cách nay khoảng hơn mười năm, khi ông Kiệt còn sống, tôi làm phim Ấn tượng Võ Văn Kiệt, Lê Văn Duy đạo diễn, nhưng làm xong
rồi cất đó. Chính ông Kiệt không cho chiếu. Lý do ông nói là nhiều bậc tiền bối
như ông Phạm Văn Đồng, ông Lê Duẩn còn chưa làm phim. Khi nào có dịp thì mới
chiếu.
Mối duyên nào đưa ông
lại làm kịch bản cho bộ phim mới hôm nay?
Tôi có biết được đâu. Đài truyền hình Vĩnh Long gặp Hồ Ngọc
Xuân, người từng làm phim về ông Phạm Hùng, ông Xuân gợi ý nói nhờ ông Sáng
làm. Nói miệng với nhau thôi, chưa có hợp đồng gì.
Nhưng ông phải biết rất
rõ về ông Võ Văn Kiệt mới được mời viết chứ?
Họ biết tôi từng nhiều lần uống rượu với ông Kiệt. Biết ông
ấy qua nhiều thời kỳ và quan trọng là tôi viết không giống như những cuốn sách
lớn đã viết về ông theo quan điểm chính trị hơn là về một con người cụ thể.
Cuộc đời của nhân vật rất dài, rất nhiều sự kiện, tôi chỉ viết khoảnh khắc đời
ông thôi.
Đó là khoảnh khắc đặc
biệt nào, thưa ông?
Là thời điểm ông từ Trung ương đi tàu không số về nhận chức
Bí thư Quân khu 9, đoạn đời ba tháng của năm 1973 sau Hiệp định Paris. Đó là việc ông
"làm ngược" chỉ đạo của Trung ương lúc đó đình chiến theo đúng Hiệp
định. Ông Kiệt khi ấy phải đối mặt với một thực tế là chúng ta thi hành Hiệp
định còn đối phương thì không. Ở miền Tây Nam bộ, tổng thống chế độ cũ Nguyễn
Văn Thiệu từ Sài Gòn xuống tuyên bố vẫn tiến hành chiến tranh. Chúng ta
"đình" còn đối phương "chiến", nên bị lấn chiếm.
Ông Kiệt chủ trương đánh. Người ta nói rằng ông như đang làm
xiếc, phải đi trên dây chính trị mà bên dưới không có gì bảo hiểm, té là tiêu
luôn. Khi ấy, ông nói một câu rất hay: "Tôi làm theo mệnh lệnh của đất và
dân". Ông còn nói nếu Trung ương kỷ luật, ông sẽ đứng ra chịu trách nhiệm.
Nhưng anh em Khu ủy đồng lòng: Nếu Trung ương kỷ luật, tất cả sẽ đứng ra nhận
chung. Tinh thần đoàn kết lúc đó rất tuyệt vời. Từ chủ trương "đánh"
của ông, các chiến trường đều hưởng ứng. Mở ra mặt trận mới. Ào ào tấn công,
tạo cao trào tổng tấn công đến chiến thắng năm 1975.
Ông nói giai đoạn này có
nhiều chuyện rất hay?
Ông Kiệt làm những việc lạ lắm. Lúc đó ta có nhiều đôla Mỹ
tiền viện trợ mà không làm sao để xài được. Ông liên hệ với một nhà báo Sài Gòn
thông thạo nhiều việc, nhờ đổi. Nhà báo đó là Nguyễn Khắc Hân, bạn học của tôi,
giờ anh còn sống. Ông già anh là lãnh đạo trong cấp ủy của công an tỉnh Bạc
Liêu, gia đình đi tập kết, mình anh ở lại làm báo, nổi tiếng tay chơi Sài Gòn.
Việc chở tiền cũng ly kỳ như phim tình báo. Mang cả vali tiền vào đồn địch, chở
cả tiền ngụy trang là tiền trả lương công nhân khai thác gỗ...
Tôi thích câu chuyện của ông Võ Văn Kiệt với văn nghệ sĩ.
Thời kỳ tài chính eo hẹp khiến đời sống khó khăn, đơn vị đề nghị giải tán đoàn
văn công, nhưng ông Kiệt không đồng ý. Ông nói có tiền nuôi cả bảy sư đoàn được
mà, sao phải giải tán đoàn văn công. Nhà chính trị đăng đàn diễn thuyết mấy ai
thích nghe, còn nghe tin có đoàn văn công, người ta chèo ghe ào ào đi coi.
Chiến sĩ miền Bắc vô cả sư đoàn, tiền thì hết, Khu ủy chủ trương chỉ đủ tiền
phát lương cho chiến sĩ miền Bắc vào, vì anh em không biết mò cua bắt ốc, còn
người Nam bộ không bao giờ đói. Thời đó không ai ăn con cá thòi lòi mặt quỷ
sống đầy ở các kênh rạch, chỉ bộ đội bắt ăn. Nhà bếp phải cắt bỏ đầu, kho hoặc
nấu canh chua. Ông Kiệt ăn, thấy lạ, hỏi sao cá không thấy đầu. Nhà bếp không
biết ông là "sếp lớn", thân mật giải thích: "Con này mặt nó xấu
nhưng bụng nó tốt, có gì đâu, ăn ngon là được mà".
Câu chuyện nào ông cho
là thú vị, hấp dẫn nhất?
Tôi thích nhất là chỉ
trong một giai đoạn, mà có thể nói được về ông - con người đặc biệt. Một người
bạn kể cho tôi câu ông Kiệt nói với ông Nguyễn Bá Thanh, Bí thư Thành ủy Đà
Nẵng. Ông Bá Thanh hỏi bí quyết để thành công, ông Kiệt nói ngắn gọn: "Là
không sợ mất ghế". Một câu thật sắc bén. Ông là người Cộng sản Việt Nam.
Ông hiểu biết văn hóa, theo ông, kho tàng ca dao tục ngữ Việt Nam có tất cả triết học và lối sống
trong đó. Ông hài lòng khi có người bạn có con đi du học chuẩn bị cho con đem
theo tập ca dao tục ngữ Việt Nam
và cuốn Truyện Kiều. Ca dao tục ngữ Việt Nam là để tìm trong đó cách giải quyết mọi vấn
đề trong cuộc sống và Truyện
Kiều là để trau dồi không
quên ngôn ngữ Việt Nam.
Còn có gì khó khăn nhất?
Khó nhất là sợ... kiểm duyệt! Tôi chỉ có nhiệm vụ làm việc
tập trung và viết ra trung thực. Một cái khó nữa là phải có nhân vật đối thoại,
chứ không sẽ nhàm. Có đoạn này vui: Ông đang đi trên sông, bỗng trên chiếc
xuồng đi ngược lại, có người gọi to: "Chín Lục Lạc!". Ông quay xuồng,
thì ra đó là một bà trong Ban Chấp hành Phụ nữ, trước đây là bí thư ở Vũng
Liêm, khi ông mới mười sáu tuổi, là đảng viên ở đó. Bà bí thư này đã đặt cho
ông cái tên Chín Lục Lạc vì người thanh niên trẻ này đi đến đâu tưng bừng đến
đó, phong trào dậy lên. Những chi tiết đó ai biết, ai sáng tác ra nổi!
Kịch bản ông viết xong
rồi, vậy bao giờ thì khởi quay, thưa ông?
Còn lệ thuộc vào đạo diễn. Phim truyện. Khó nhất là tìm diễn
viên đóng vai ông Kiệt. Đang tìm. Quan điểm của tôi là không chọn các diễn viên
nổi tiếng, vì nếu là những diễn viên ai nấy quen mặt, người xem phim có thể cảm
thấy không thực. Hãng phim Teresa mua kịch bản, cộng tác với đài Tây Đô.
Tò mò muốn biết ông có
được trả nhiều tiền không, bởi những ba mươi tập...
Tiền bạc cứ theo ba-rem, bên đài hỏi thằng con tôi (đạo diễn
Nguyễn Quang Dũng - PV) biết mỗi tập bao nhiêu. Chưa nhận tiền. Tôi được viết
về ông Kiệt là vui lắm. Mình cần tiền làm gì. Vui thôi. Viết tay tới bốn, năm
tháng, còn chạy xuống Bạc Liêu, coi những chỗ ông đã đi. Nay sông rạch sầm uất
lắm. Tôi xuống đó kết hợp với việc một công ty mời đi cùng với họ xây cầu cho
bà con miền Tây.
Ông có còn giữ thói quen
đi với đạo diễn, tham gia chọn cảnh cho phim luôn?
Tôi vẫn hay đi như thế.
Nhớ khi đi với Hồng Sến chọn cảnh làm phim Mùa
gió chướng, sen nở nhiều lắm nhưng tôi nói chọn bông súng cho đỡ nhàm. Gợi
ý thế thôi, mà "nó" nghe. Tôi có thói quen, gợi ý mà đạo diễn không
nghe là bỏ. Thuyết phục không nghe là dẹp. Vậy thôi. Phim này xong kịch bản
phân cảnh, đài truyền hình chuẩn bị máy móc, xong là đi quay.
Ở tuổi này đi
nhiều lăn lộn vậy có đủ sức khỏe không, thưa ông?
Có gì đâu mà không đủ.
Tôi đi chơi tối ngày. Đi bây giờ khỏe, đường sá, xe cộ, khách sạn... thuận
tiện. Từ xưa tôi với Hồng Sến lăn lộn dữ quen rồi. Về lại Đồng Tháp Mười, cánh
đồng vẫn như vậy, từ cái thời Trịnh Lê Văn định quay Chiếc lược ngà. Nhớ quá nên đi
hoài, một năm tới hai, ba lần. Tôi vẫn về cánh đồng nước hoài.
Chắc về miền Tây, ông
nổi tiếng dữ lắm, người hâm mộ có kéo đến "xem" tác giả Cánh đồng hoang không?
À, có địa phương nghe tin, cử một cán bộ đại diện Ủy ban đón
đoàn đi chiêu đãi.
Có vẻ người đọc biết ông
qua điện ảnh nhiều hơn qua văn chương?
Miền Nam có hai thế
hệ: Đọc sách và xem phim. Cánh
đồng hoang, Mùa gió chướng sau này được biết nhiều hơn Chiếc lược ngà.
Có phải Cánh đồng hoang là
đỉnh cao nhất trong sự nghiệp viết văn của ông?
Đúng rồi. Tôi nuôi chi tiết, ý tưởng từ những năm 1966,
nhưng mãi đến năm 1978 mới làm được. Vì lúc đó tôi đang ở miền Bắc, không có
bối cảnh đồng nước mênh mông như Đồng Tháp Mười, nên không thể tiến hành. Hồi
đó tôi được biết làm phim có cảnh một cô bơi xuồng mà người ta móc kéo xuồng
vô. Giả quá! Để về miền Nam
làm. Tôi không vội vàng.
Ông sống ở những cánh
đồng nước đó lâu, chi tiết bọc đứa bé vào bao nylon nhấn chìm xuống nước để
tránh máy bay nhìn thấy, ấn tượng cho cả thế giới. Nhiều bạn trẻ thế hệ ngày
nay thắc mắc: Họ sống như vậy thật sao?
Lúc đó tôi là cán bộ vùng Đồng Tháp Mười về chiến trường ở
nguyên một mùa nước nổi mà. Không có chuyện thực thì sao bịa được. Đồng Tháp
Mười mênh mông nước, trực thăng hay rà bắn, không có chỗ ẩn nấp. Con nít sao
lặn được? Mỗi nhà đều có trữ bao nylon. Cho vào, thảy xuống theo người lớn lặn,
nó khóc là đương nhiên. Tôi mê chi tiết. Viết văn không chi tiết chỉ nói như xã
luận thì còn ra gì. Viết văn giống quy luật của toán, chặt chẽ không thừa không
thiếu. Tôi viết chặt chẽ vì xưa đi học giỏi toán.
Ông yêu đồng quê sông
nước Nam
bộ. Nó thật đậm đà trong văn, trong phim của ông. Bây giờ đô thị hóa khiến đồng
quê mất dần, ông có tiếc không?
Đã xây dựng, công nghiệp hóa được bao nhiêu đâu. Đô thị hóa
chưa nhiều nhưng cách sống và bi kịch đô thị thì tràn ngập.
Ông cũng vừa chủ biên
cuốn sách đồ sộ kỷ niệm 100 năm bóng đá Việt Nam, trong khi bộ môn thể
thao mà ông giành nhiều giải thưởng là bóng bàn?
Trong cuốn đó tôi có viết bài về đội bóng làng. Ông bố tôi
xưa là thủ quân một đội bóng làng ở An Giang, đội bóng được sự tài trợ của một
ông cò người Pháp. Bố tôi cao ráo, đá bóng giỏi, hồi nhỏ ông học cùng Tạ Thu
Thâu. Đội bóng làng Mỹ Luông của ông và đội bóng làng Long Điền kế đó đối đầu
nhau lâu dần thành... đối địch. Ông Châu Văn Liêm hoạt động chi bộ đầu tiên ở
An Giang, đến gặp ông già tôi, hỏi: "Tại sao vì chuyện đá banh mà để cho
hai làng thù ghét nhau như vậy? Chi bằng gộp chung lại thành một đội mang tên
ghép hai làng Mỹ Long, đội bóng của những người đoàn kết, yêu nước".
Bố tôi nói: "Anh nói người ta nghe, vậy anh làm đội
trưởng". Sau giải phóng, tôi có về làng, làng mời đội bóng Sài Gòn xuống
đá, giao hẹn nhường nhau, lúc về còn tặng mỗi người một bao gạo. Vui lắm. Tôi
tham gia viết cuốn lịch sử bóng đá theo lời mời của anh Lê Hùng Dũng, Chủ tịch
Liên đoàn Bóng đá TP. Hồ Chí Minh. Tôi là chủ biên, duyệt đọc. Người ta mời
tham gia nhiều thứ, mình cứ nói không hoài thì buồn chết cha. Những ông cán bộ
không có nghề chuyên môn gì khi về hưu mới đi chơi lang thang.
Ông có nhận xét gì về
tình hình sáng tác văn học của chúng ta hiện nay?
Chà, vụ này mệt đây! Nói chung là đề tài trong cuộc sống rất
phong phú, nhưng tập trung cho viết lách hơi khó. Gì chứ làm nghề viết văn,
không tập trung là thua.
Vậy ông thường đọc tác
phẩm của ai?
Đọc sách Phật, hoặc các
sách công cụ như Từ điển tiếng
nói Nam
bộ. Mà sao cả trong cuốn này
cũng không có giải thích từ "U Minh". Tìm hoài không ra lịch sử tên
gọi rừng U Minh.
Điều gì khiến ông chuyển
sang đọc sách Phật?
Đó không là phải "chuyển sang đọc". Tôi đọc cả
mười tám tập kinh Phật. Đọc cả sách Thiên Chúa. Đạo Hồi cũng có câu hay, không
ai biết vũ trụ từ đâu và cũng không ai biết vũ trụ kết thúc lúc nào. Tức là
mình đừng tưởng cái gì cũng biết. Mình không biết gì hết. Người ta tổng kết cái
không biết của mình mới ghê chứ. Nếu trước đây mình đọc tất cả các triết lý cẩn
thận thì viết chắc chắn sâu sắc hơn. Thâm thúy lắm. Tổng kết cuộc đời, dạy con
người ta lòng nhân ái và biết chấp nhận. Tôi thích câu chuyện người mẹ có con
bị chết, đem xác con đến nhờ Phật cứu sống lại. Phật bảo, hãy đi hỏi xem trong
xóm có nhà nào không có người chết không. Những triết lý, cách nhìn rất sâu
sắc.
Bây giờ ông sống và viết
lách thế nào?
Sáng tập thể dục, tự xoa bóp theo phương pháp cốc đại phong,
khỏi mát-xa tốn tiền. Uống cà phê quán cóc, gặp ai ngồi với người đó. Quán cóc
lề đường nghe đủ thứ chuyện, cô này con kia thằng nọ. Về nhà đọc báo giấy.
Không lên mạng internet. Không đi xe đạp nữa, mà taxi. Coi như mua bảo hiểm cái
mạng của mình bằng vài trăm ngàn đồng.
Đang viết truyện ngắn, bút ký, buồn buồn vui vui, kể chuyện
thật của bà già kể. Ngôn ngữ bà hay lắm. Bà hỏi tên mọi người rồi giao hẹn:
"Hồi tôi quên tôi hỏi lại nữa". Hỏi bà bao nhiêu tuổi, bà trả lời
"mới tám mươi lăm". Hài hước. Những chuyện về con gái miền Tây bỏ xứ
đi như "hàng binh đoàn" cũng nằm trong các truyện ngắn và bút ký
ấy... Tôi còn món nợ lớn, muốn viết cho khác mọi người về hai chuyến đi dọc đất
nước trong chiến tranh. Năm 1966 còn khỏe, từ Bắc vô Nam chiến đấu, đi bộ, có rất nhiều
kỷ niệm. Năm 1971 bị bệnh, phải từ Nam ra Bắc. Bệnh cũng đi bộ. Không
phải viết hồi ký, vì sợ rằng khi ấy lại bị thói "cái hay thì kể ra, cái dở
giấu đi" thì đâu còn trung thực nữa.
Ông có quan tâm đến các
vấn đề thời sự của đất nước?
Có chứ. Thế giới này mở ra. Tôi đặc biệt theo dõi chuyện bảo
vệ bờ cõi, chủ quyền.
Ông là người lắm bạn bè,
thường nhậu với nhau, bây giờ ông dọn nhà sang quận 7 mà bạn bè ở quận 1, quận
3 cả?
Thế mới phải đi taxi sang chơi các bạn. Nhưng mấy bạn uống
rượu của tôi bây giờ toàn người trẻ không. Dạo ra chơi Thái Nguyên, tôi nói với
các bạn ngoài đó: hồi trẻ tôi chơi với mấy ông già, học mấy ổng. Nay mấy ổng
lẩm cẩm như tôi, học gì nữa, phải chơi với người trẻ, họ bắt nhịp cuộc sống cho
mình học.
Những bạn trẻ có biết
uống rượu bằng ông không?
Hỏi lạc hậu dữ rồi nha. Họ uống còn hơn tôi. Tôi chơi với
nhiều nhạc sĩ, ít nhà văn. Xưa thì với Từ Huy, Trịnh Công Sơn, Bảo Phúc... Tôi
học nhạc từ những năm còn nhỏ, chuyện lịch sử âm nhạc có khi đố ra mấy nhạc sĩ
còn chịu. Dạo ở Hà Nội cũng ham nghe nhạc lắm. Hồi đó có cái máy quay đĩa của
Liên Xô là ghê rồi, chỉ tôi và Nguyễn Đình Thi có. Người ta cứ nghĩ tôi là nhạc
sĩ. Bỏ mất cái máy quay đĩa của một thời, uổng quá.
Xin cảm ơn nhà văn và
chúc ông có nhiều tác phẩm mới.
·
Nguyễn Thị Ngọc Hải
·
(Theo Doanh
nhân Sài Gòn Cuối tuần)
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng là thần tượng văn chương của Mây đó nhe. Rất thích bài viết này. Cám ơn tác giả.
Trả lờiXóa