Nhà văn Trương Văn Dân
Câu nói của David đã ám ảnh tôi một thời gian rất dài, và có thể cho
rằng từ lúc ấy quan niệm sống của tôi đã
dần dà thay đổi. Trước kia tôi luôn luôn tất bật trong việc mưu sinh, toàn bộ
thời gian đều dành cho công việc. Tôi đã sống theo một thói quen, như một phản
xạ, chấp nhận một cách thản nhiên nhịp điệu đều đều của năm tháng và ít khi
suy nghĩ vẩn vơ... Nhưng biến
cố xảy ra cho bạn đã
làm tôi kinh hoảng nhìn lại mình và từ đó tôi thường hay thắc mắc và ưu tư về ý
nghĩa cuộc đời.
Lúc ấy là một buổi chiều
mùa thu. Trên nền trời thiên thanh có những
cụm mây trắng đang phiêu diêu về một phương trời vô định. Chúng
tôi đang đứng trên tầng thứ sáu ở cuối hành lang bệnh viện nhìn xuống những đứa
bé trên tay cầm những que kem cuối mùa hay những chiếc bong bóng nhiều màu bay
bay trong gió. Không gian im đến nỗi có
thể nghe những tiếng reo vui của chúng. Trong đầu tôi vừa lóe lên ý nghĩ là những
hình ảnh vui tươi ấy sao mà tương phản với thế giới bên trong, giữa người
thường và kẻ bệnh, thì câu nói của David đã làm những hình ảnh trước mắt
tôi chao đảo và nhạt nhoà.
Giờ thì David và tôi đã
mãi mãi không còn gặp nhau. Nhưng mỗi khi cây phong trong vườn tôi bắt đầu đổi
sắc, nhìn những tán lá muôn màu lung linh trong gió thu bắt đầu chớm lạnh, lòng
tôi lại không khỏi bâng khuâng nhớ đến
người bạn cũ. Những lúc ấy, hình ảnh David cứ chập chờn hiện đến, khi lờ mờ,
khi rất rõ, làm đôi khi tôi có cảm giác về sự hiện diện của anh. Tâm trạng đó
chỉ đến với tôi trong vài giây ngắn ngủi,
nhưng âm thanh của lời nói cuối như vẫn còn vang lên rồi vọng lại từ một đáy
sâu thăm thẳm trong tâm hồn.
*
Mười năm trước, tôi gặp
David trong hội nghị khoa học chuyên ngành. Lúc ấy tôi vừa tốt nghiệp đại học
được vài năm và đang phụ trách một nhóm nghiên cứu kỹ thuật dược. Có lẽ tôi là
người Á Đông duy nhất nên sự hiện diện của tôi đã gây nên một sự chú ý cho các
đồng nghiệp. Trong giờ giải lao chúng tôi tình cờ ngồi gần nhau và sau vài câu
xã giao, hỏi thăm vớ vẩn, David cho tôi biết là đang làm việc cho một hãng đa
quốc gia có chi nhánh tại Milano. Anh có
khuôn mặt rất hiền, dưới vầng trán rộng và cao là đôi mắt long lanh, đầy nghị
lực. Lúc đối diện không hiểu sao tôi lại tinh nghịch để ý đến lọn tóc vô duyên
bên trái thường rơi phủ mắt, ranh mãnh
nhìn anh mân mê rồi hất lên, điệu bộ như
cô con gái hay làm dáng.
Sau một lúc,
David nhìn tôi và hỏi:
- Xin lỗi, tôi không đoán được ông là người ở đâu!
Nhưng tôi chắc, không là Nhật, cũng chẳng phải Đại Hàn hay Trung Quốc!
- Tôi là người Việt Nam!
Tôi nghĩ David không đoán
ra là phải. Thuở ấy sinh viên Việt Nam qua Ý du học rất ít. Có thể nói là chỉ
đếm được trên đầu ngón tay. Chính quyền miền Nam chỉ cho qua có hai đợt rồi
ngưng lại, bởi lệnh động viên sau mùa hè đỏ lửa.
Sau tiếng “ồ” kinh ngạc,
David hỏi tiếp:
- Việt Nam, nhưng quê ông ở đâu?
- Tôi ở miền Trung.
Tôi chỉ trả lời
qua quít vậy thôi. Nhiều người Ý, có người không biết Việt Nam nằm ở đâu trên bản đồ thế giới, nhưng khi nghe
Việt Nam thì cứ hỏi xấn, làm như hiểu
biết ghê lắm. Vài địa danh nếu có dịp tình cờ nghe từ các phóng sự chiến tranh
qua đài truyền hình chắc họ cũng đã quên rồi! Họ chỉ chờ chúng tôi trả lời là
thuộc về miền Nam hay miền Bắc để bình luận chiến tranh, để phân biệt chúng tôi
là loại thân Nga hay thân Mỹ, đưa sâu câu chuyện về nội dung chính trị mà chúng
tôi thường tránh để khỏi mất thì giờ khi thấy không cần thiết. Theo kinh
nghiệm, khi nói miền Trung là họ bị khựng lại và bắt buộc phải thay đổi đề tài.
Nhưng lần này thì khác.
David cứ hỏi tiếp :
- Miền Trung mà ở tỉnh nào? Gần Huế hay Phan Thiết?
- Bình Định. - Tôi
bất ngờ thú vị, nhưng vẫn trả lời nhát gừng, tinh quái nhìn anh với vẻ thách
đố. - Ông có biết là đâu không?
- Sao lại không?
Vừa nói David vừa lấy bút vẽ nguệch ngoạc trên giấy. Bình Định, Qui Nhơn nằm
giữa Nha Trang và Đà Nẵng … ở về phía đông Pleiku…
Tôi trố mắt ngạc nhiên. Hoá ra những năm 68-70 David có chân
trong phong trào sinh viên tranh đấu đòi chấm dứt chiến tranh Việt Nam
nên đã theo dõi tình hình khá kỹ.
Sau hội nghị, chúng tôi quen rồi thân nhau.
*
Vì cùng ở Milano nên từ đó tôi và
David vẫn thường liên lạc. Mới đầu chỉ trao đổi những thông tin nghề nghiệp,
nhưng dần dần chúng tôi trở thành bạn thân. Tuy nhiên chúng tôi ít có dịp gặp nhau vì lúc đó tôi ở ngoại ô còn David vẫn ở trong thành phố.
David lớn hơn tôi năm,
sáu tuổi và là người luôn luôn sống cho công việc. Trong đầu anh lúc nào cũng
ám ảnh ý nghĩ làm giàu và toàn bộ thời
gian cuả anh đều dành cả cho mục đích duy nhất ấy. Sau này khi biết anh nhiều
hơn, tôi mới vỡ lẽ ra là tại sao một người
thông minh và vui tính như anh lại có rất ít bạn
bè.
Lúc ấy
David đã lập gia đình và có một bé trai. Carla, vợ anh, là một cô gái trẻ, khá
đẹp, nhưng ít khi tiếp chuyện với những người quen của chồng mình. Lúc đầu tôi
cứ tưởng tại cô ta nhút nhát, hay e thẹn, nhưng David cười và bảo là không
phải. Anh cho hay là cô ta làm việc trong công đoàn và trước đây còn là một
thành viên hoạt động trong phong trào phụ nữ. Tôi thấy lạ quá. Thông thường
những người hoạt động xã hội thường ăn
nói hoạt bát, cớ sao… nhưng có lẽ sau khi lấy chồng, bận bịu con cái, cô ta
thay đổi tính.
Nhìn
bề ngoài vợ chồng David không có vấn đề gì, họ sống bình thường như những gia
đình khác.
Khi mang thai đứa con
thứ hai, Carla đề nghị chồng mua một villa
gần thành phố, có vườn để các con có chỗ vui đùa và họ dọn về đó trước khi đứa bé ra đời. Thời gian sau, vì
hai con còn nhỏ nên Carla quyết định xin nghỉ việc.
Villa của David nằm
khá gần khu nhà tôi cư ngụ nên từ dạo đó chúng tôi thường có dịp gặp nhau, song
phần lớn đều do tôi chủ động và điện thoại trước chứ David rất ít khi liên lạc. Lúc đầu tôi hơi
phiền nhưng về sau biết những bận rộn
của bạn, tôi không còn quan tâm nữa.
Thủa ấy tôi còn khá trẻ và cũng rất đam mê công việc. Tôi làm
việc rất hăng say, đọc nhiều sách kỹ thuật để trau dồi nghề nghiệp. Đường công
danh của tôi thênh thang rộng mở, tôi hăm hở tiến đến những mục đích của mình.
Toàn bộ thời gian tôi dành cả cho việc tiến thân, ít khi quan tâm đến những
chuyện tâm tình hay chia sẻ những buồn vui với những người trong gia đình.
Những chuyện ấy tôi cho là chuyện vặt vãnh, tầm thường. Lúc đó tôi còn quá non
nớt để nhận ra tầm quan trọng về giá trị của những điều tưởng như tầm thường vì
luôn nằm trong tầm tay, tôi nào biết đó là những vấn đề căn bản của hạnh phúc
và an lạc trong đời người. Đến lúc đó trong đời tôi chưa xảy ra biến cố nào có
thể giúp cho tôi hiểu – mà thường khi hiểu ra như thế thì đã quá trễ rồi, không
sao cứu chữa được!- Nhưng cũng có thể là do tham vọng và lòng kiêu hãnh của
những người trẻ tuổi, luôn tưởng mình có sức mạnh vạn năng, có thừa sức để thực
hiện những ảo tưởng ngông cuồng. Và cái bả lợi
danh đã lôi cuốn tôi lao vào dòng
đời như muôn ngàn người trẻ khác.
Nhưng sức làm việc
kinh khủng của tôi thật ra chẳng thấm vào đâu so với những năng nổ của David.
Ngoài công việc ở hãng, thứ bảy, chủ nhật anh còn bận pha chế mỹ phẩm, và buổi tối tuần ba, bốn
bận, xin trực đêm ở một pharmacie.
Dù có vị trí vững vàng trong công ty nhưng
David vẫn không vừa ý. Anh thường nói là lời khuyên của cha lúc nào cũng văng
vẳng bên tai và thôi thúc anh đi tới. Anh cho rằng một chỗ đứng trong công ty
dù cao đến đâu cũng phải lệ thuộc vào người khác nên anh quyết vượt qua những
ràng buộc ấy để vươn lên. Bởi thế sau khi tốt nghiệp, anh vừa làm vừa học để lấy thêm bằng chuyên
khoa chế tạo mỹ phẩm. Sống trong môi trường dược, anh thừa biết là muốn
lập một công ty phải cần vốn rất cao mà
cả đời anh cũng không sao dành dụm nổi, chỉ có chuyển qua mỹ phẩm thì sau này
anh mới có thể trở thành chủ, vì luật lệ sản xuất không quá khắt khe và máy móc
dành cho sản xuất tương đối giản đơn.
Có thể nói đây là sự chọn lựa chính xác và suy
nghĩ sâu sắc của anh. Ngay trong villa anh trang bị một phòng sản xuất nhỏ và
với óc sáng tạo, anh hoàn thành những công thức mỹ phẩm bằng những thiết bị đơn sơ, phần nhiều do tự
chế. Trong những đêm trực ở pharmacie, anh so sánh, đối chiếu những thành phẩm của mình với những sản phẩm đã nổi
tiếng, nếu có chi tiết nào không vừa ý, anh về nhào đổi đi thử lại mãi cho đến
khi vừa ý mới thôi.
Sức làm việc bất kể
ngày đêm của David đã làm tôi hoảng hồn vì chưa từng thấy ai làm việc như thế.
Những thời gian sau, tôi biết rõ
những sinh hoạt hằng ngày của bạn: Sáng dậy sớm vì quãng đường từ nhà đến phòng thí nghiệm
thường kẹt xe và chỉ có cách rời nhà khi
mọi người còn ngủ mới có thể tránh được giờ cao điểm. Ở sở, David luôn bận rộn
với trách nhiệm nặng nề, tương xứng với những thăng thưởng thường xuyên. Đến
giờ ăn trưa, David thường đi riêng, luôn luôn mang theo một tạp chí kỹ thuật và
ngồi ở nơi vắng vẻ. Anh ăn vội vã và gần
như lén lút nhét một cái bánh mì nhồi thịt vào xách tay, cầm thêm vài quả trái
cây cho bữa ăn chiều, vì sau khi tan sở anh phải đi trực ở một nhà thuốc tây suốt buổi tối. Từ
sở đến pharmacie khá xa, nếu phải mua sắm thức ăn, chắc chắn anh sẽ đến trễ...
Những lần tôi gặp
anh, không khi nào câu chuyện giữa chúng tôi được liên tục, không bị gián đoạn.
Nếu hẹn ở phòng pha chế trong villa vào dịp cuối tuần thì anh vừa pha chế vừa nói chuyện, đồng hồ
điện tử trên tay chốc chốc lại reo lên nhắc nhở một cuộc hẹn hò nào đó phải đi
ngay, hay trả lời những cú điện thoại gọi đến để đặt hàng, thương lượng giá.
Còn gặp nhau buổi tối ở pharmacie thì ít
khi nào chúng tôi có thể nói cho tròn những điều cần nói vì khách gọi cữa liên
miên, hoặc có khi bị ngắt quãng chỉ vì
bọn xì ke bấm chuông, mua ống tiêm để
chích choát.
Cuộc sống của David
luôn luôn bị hối thúc bởi thời gian và hoàn toàn bị ám ảnh về tiền bạc.
*
Một thời gian sau, Carla nói là cô chán ở nhà một mình chỉ để
dọn dẹp nhà cửa và lo cho con cái, nên xin phép anh được đi làm trở lại. David
sợ vợ buồn nên chẳng những không ngăn cản mà lại còn khuyến khích. Mấy đứa con
thường được gửi ở nhà ông bà ngoại. Dần dà Carla bị cuốn hút vào sinh hoạt
chính trị, họp hành liên miên, nhiều bữa đến khuya mới dứt. Đôi khi trở về căn
nhà quạnh quẽ, David cũng thấy buồn,
nhưng nỗi buồn chưa kịp ngấm thì anh đã hăm hở lao vào dòng đời để đuổi bắt
thời gian.
*
Thấy anh làm việc
quá căng thẳng nên có lần tôi gặng hỏi.
David thường nói là tao cần tiền, rất nhiều tiền. Chỉ có tiền thì tao mới được
tự do và hạnh phúc! Tôi không bị những lý
lẽ đó thuyết phục, nhưng rất tò mò muốn biết vì sao một con người nhạy cảm và thông minh như anh lại chọn một lối sống không mấy thông minh như
thế .
Một lần David tâm
sự và kể tôi nghe về gia cảnh của anh.
Khi nghe chuyện tôi cứ thắc mắc mãi và
không biết những lời giáo huấn của cha mẹ khi các con còn thơ ấu có ảnh
hưởng ra sao đến việc hình thành nhân sinh quan của chúng sau này.
David sinh ra trong
một gia đình khá nghèo. Những buổi tối
về nhà với đôi bàn tay còn dính đầy dầu mỡ, cha anh thường lập đi lập
lại “Nhớ nghe con, trên đời này chỉ có học thức và tiền bạc mới mang lại một
cuộc đời hạnh phúc”. Mẹ anh đang chờ chồng rửa tay ở bồn nước trong nhà bếp,
ngước đôi mắt lơ láo nhìn ông. Những lời ấy đối với bà quá cao xa, chẳng khác
gì chuyện người ta mong cầu trúng số .
Từ nhỏ David là một đứa bé rất ngoan và học hành chăm chỉ.
Anh luôn luôn tâm niệm mình cần cố gắng tối đa để xứng đáng với công lao khó
nhọc của cha, những lúc sau này luôn về trễ vì hay nhận thêm việc ngoài giờ.
Sau khi lấy xong tú tài, cha anh khuyên con nên chọn một phân khoa kỹ thuật ở
đại học vì tin rằng đó là sự chọn lựa đúng đắn nhất.
Nhưng có lẽ đó không phải là con đường đúng nhất đối với
David. Hình như văn khoa mới hợp hơn với tính tình đa cảm, hay mơ mộng của anh.
Nhưng không phải vì thế mà việc học hành của anh bị trở ngại. Trái lại là khác,
bởi anh luôn là sinh viên xuất sắc từ khi nhập học cho đến ngày trình luận án
ra truờng. Nhưng tiếc rằng người cha thân yêu đã không đợi được ngày vinh quang
đó của con mình. Một buổi tối mùa đông,
các đồng nghiệp làm việc ngoài giờ thấy ông ngồi tựa đầu trên bàn máy, như đang
say ngủ. Nhưng đó là giấc ngủ không bao giờ tỉnh dậy. Cơn nhồi máu cơ tim đã
cướp ông đi vĩnh viễn. David còn lại một mình với mẹ. Bà lão sau cái chết của chồng càng đâm ra đờ đẫn. Sau khi tìm
được việc, David đề nghị thay đổi căn nhà cho mẹ, nhưng bà gạt đi, bởi thích
được sống trong căn phòng âm u quen thuộc, vì đã từ lâu bà không còn ước
mơ gì nữa!
*
Một hôm, sau khi ăn mẫu
bánh mì và đang chuẩn bị đi trực ở pharmacie thì David chợt nghe dạ dày đau
nhói lên như có nghìn mũi kim châm chích. Thoạt đầu anh tưởng ăn không tiêu nên
vội pha một gói Alka Selzer, nhưng uống xong cơn đau vẫn không thuyên
giảm. Anh nghe bụng mình sôi lên và thức
ăn bên trong như cứ chực trào ra. Không nhịn nổi, anh ôm bụng
lăn lộn và gập người như con tôm. Khi
nghe vị mặn dâng trong cổ họng, anh chạy vào phòng tắm rồi nôn oẹ ra trong bồn rửa
mặt. Một thứ bầy nhầy hôi hám màu đỏ bầm
hiện lên, có xen vài giọt máu tươi. Anh vội vã súc miệng và khi ngẩng lên, nhìn
khuôn mặt mình phờ phạc và hốc hác trong gương, anh sững sờ quay đi phía khác.
Sau phút hoảng hốt, anh cố gắng lấy lại bình tĩnh. Chắc chẳng
có gì nghiêm trọng đâu. Chẳng qua chỉ là một cơn viêm dạ dày, nếu cố gắng chữa
trị chắc sẽ đâu vào đấy. Nhưng anh thấy mình mệt mỏi và đầu óc vô cùng căng
thẳng. Anh định bụng sẽ xin nghỉ một thời gian dưỡng sức. Anh sẽ bảo Carla xin
phép để dẫn các con cùng đi. Lâu nay gia đình không có dịp sum họp. Bỗng dưng
anh thấy mình có lỗi với vợ con. Rồi để
tự trấn an, anh cố hình dung đến những ngày thú vị sắp tới, được nhìn các con
tung tăng trên bãi biển.
Sáng hôm
sau cơn đau vẫn không hề thuyên giảm. Những ngày kế tiếp cũng chẳng khá gì hơn.
Khi David đi khám, bác sĩ cho nhập viện khẩn để xác định bệnh lý.
Kết quả kiểm nghiệm: Ung
thư bao tử!
David hoang mang vô kể. Làm sao bây giờ đây? Anh thẫn thờ như người mất trí. Chiều đó anh nằm
đợi ở nhà để báo cho vợ hay thì lại nhận
thêm một cú điện thoại bất ngờ. Bên kia đầu dây, luật sư của Carla thông báo là
nên tiếp xúc với ông ngay để dàn xếp vấn đề li dị! David bàng hoàng. Lâu nay
hạnh phúc gia đình anh đã tan thành mây khói mà anh vẫn không hề hay biết.
Nhưng nỗi đau xé ruột là tại sao một vấn đề sinh tử như thế, Carla lại không
trình bày với anh trước, để đến nỗi phải thông qua trung gian một người lạ mặt.
Và oái ăm thay, lại chọn đúng vào lúc này!
*
Khi
David nằm điều trị ở bệnh viện, Carla mang
một xấp hồ sơ đến yêu cầu anh chuyển tên cô và các con làm sở hữu chủ
villa và các trương mục ngân hàng. Lần đó David lặng người đi và xấp giấy rơi
tung xuống đất bay lả tả. Rồi anh thiếp đi trong mê man, phần vì mệt mỏi và
căng thẳng, phần vì không muốn nhìn người đàn bà, mà đằng sau khuôn mặt mỹ miều
kia là bao âm mưu thâm độc mà lâu nay anh vẫn ngu ngơ không hề hay biết.
Cho
đến lúc này tôi vẫn còn thắc mắc mãi về chuyện Carla và David. Tôi nghĩ dẫu
không hoàn toàn hạnh phúc đi nữa thì ít ra họ cũng có thể sống một cách bình
thường như bao cặp vợ chồng an phận khác. Trên đời này đâu có thiếu gì những
cặp vợ chồng sống với nhau chỉ vì bổn phận, vì thói quen hay vì quyền lợi. Có
thể sự mãi mê làm việc của David đã tạo cho cô mặc cảm bị bỏ rơi, nhưng điều
này cùng lắm là đưa đẩy cô đi tìm nguồn an ủi ở một người đàn ông khác, tình
cảm giữa hai người đổ vỡ và dẫn đến li dị. Nhưng tại sao Carla lại có thể nhẫn
tâm như vậy? Cái gì đã biến tâm hồn cô trở nên xơ cứng và lạnh lùng như thế,
đến nỗi đòi hỏi và chọn lựa thời điểm
khi mạng sống của David mong manh như ngọn đèn trước gió? Tôi thấy như
trong thái độ ấy có dáng dấp của một sự
trả thù (?), có khi được xem như một cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa hai
giới nam và nữ, phát sinh từ sự hiểu biết lệch lạc và cực đoan về phong trào
phụ nữ! Còn lòng tham lam bệnh hoạn và ý
muốn ly dị của Carla, sau khi quyết định có đứa con thứ hai, là một điều vô
cùng khó hiểu.
*
Sau
khi cắt bao tử và lưu lại bệnh viện để xạ trị một thời gian, sức khoẻ David dần trở lại bình thường. Như vậy cái
mầm bệnh hiểm nghèo đã được loại trừ ra khỏi cơ thể, nhưng vẫn còn lại một niềm
đau khác đang xé nát tâm hồn.
Ý là nước tự
do, việc ly dị tuy không cấm, nhưng do ảnh hưởng của toà thánh Vatican nên luật
li dị rất rườm rà và phiền phức. Trước
khi hoàn tất thủ tục cần phải ly thân từ
ba đến năm năm, có lẽ người soạn luật hy vọng trong thời gian dài dằng dặc đó
sẽ có những đổi thay và các đương sự có thể xin rút đơn, tránh được đổ vỡ gia
đình.
Thời
gian li thân David vẫn tiếp tục đi làm như cũ và mức độ làm việc cuả anh cũng
không hề thuyên giảm. Villa lúc này vắng ngắt vì không có Carla và các con nên
những lúc buồn anh thường đến thăm tôi. Ít khi tôi thấy bạn đăm chiêu và suy
nghĩ như thế. Có khi anh ngồi lặng hằng giờ, không nói tiếng nào.
Một
hôm, anh điện thoại báo tin là sẽ ghé lại
thăm tôi để bàn vài việc trước khi đi trực ở pharmacie. Tôi ân cần dặn anh đến
sớm và nhân tiện mời anh dùng cơm chiều với gia đình.
Khó
thể nào tôi quên được buổi chiều hôm ấy. Anh ngừng xe mô-tô trước nhà, tháo mũ
casque cầm trước bụng bằng hai tay, điệu bộ vô cùng thểu não. Lúc bước vào anh
chỉ kịp chào hỏi qua loa rồi xin phép ngồi nghỉ chừng vài phút. Tôi bảo anh cứ
tự nhiên. Thoạt tiên anh ngồi tựa đầu lên bàn nhưng chỉ một lát sau, vẫn giữ nguyên quần áo anh nằm
xuống divan trong phòng khách rồi ngủ thiếp đi.
Tôi
ái ngại nhìn anh, lắng nghe tiếng ngáy nặng nề nhưng vẫn để yên cho anh ngủ.
Hơn một giờ sau tôi mới đánh thức vì sợ trễ công việc của anh. David bẽn lẽn
nhìn tôi, miệng lí nhí vài lời xin lỗi không nghe rõ.
Bữa
cơm diễn ra thật vội vàng và không ai còn nhớ đến câu chuyện anh định nói với
tôi. Trước khi từ giã tôi khuyên anh nên
hạn chế việc trực tối ở pharmacie và việc sản xuất cuối tuần, nhưng anh gạt đi
“ Không được đâu, tao phải làm. Tiền khám chuyên khoa và thuốc men bây giờ
đắt lắm ! ”
*
Một buổi tối
muà đông, David ngồi một mình trong căn nhà vắng vẻ. Anh nhìn trân trân những đồ vật quý giá đang bày biện
khắp nơi. Anh đứng lên mân mê cái tivi đắt giá, bộ HiFi tối tân, đặt chân lên
tấm thảm Ba Tư trải nền phòng khách thênh thang. Anh bước qua gian sản xuất mỹ phẩm… rồi mở toang cửa sổ
ngó ra vườn, sân chơi của các con …. Đó là tất
cả những hy sinh của mình và anh từng gán cho chúng những giá trị cao
sang. Rồi đột nhiên một câu hỏi vụt loé lên trong đầu. Những thứ ấy nay dùng để
làm gì, làm vương làm tướng gì chăng? Nó
có thể thay vợ, thay con, thay hạnh phúc gia đình? Nó có hàn gắn được những đổ
vỡ? Nó sẽ giúp anh thu hồi lại mười mấy
năm hoang phí trong ảo vọng mang
niềm hạnh phúc cho anh và những
người thân?
Không!
Thế tại sao anh đã đổi trao những
thứ vô tri này với một phần đời tươi trẻ của mình!
David không
tìm ra câu giải đáp. Đầu óc anh như muốn nổ tung. Anh tuyệt vọng. Và căm
thù. Anh hận đời. Anh oán người. Anh
giận dữ với chính anh. Anh bỗng thấy ganh tức và đố kỵ với tất cả loài người còn có nguyên bao tử, không bị cắt
bỏ như một phế nhân. Bỗng dưng ý thức
nổi loạn trong anh lại bùng lên. Anh muốn đập phá cho nư giận. Anh muốn thiêu
hủy và đốt cháy tất cả. Chỉ cần một mồi lửa là mọi vật sẽ tan thành tro bụi và
không còn gì nữa.
David cười lên như một thằng điên
rồi dập cửa, bước ra ngoài. Anh cảm thấy cuộc đời thật vô nghĩa nên không còn
thiết tha gì nữa. Anh sẽ rải
xăng quanh nhà rồi lái chiếc
Mercedes xông vô cửa chính với mồi lửa trên tay. Ha ha! ha
ha! Con đàn bà khốn nạn ngày mai sẽ đọc
tin trên báo. Và sẽ thất vọng biết bao, khi âm mưu chiếm đoạt đã không thành…
Nhưng gió đêm lành lạnh
bên ngoài đã làm anh bình tĩnh lại. Không, không thể như thế được. Cuộc
đời đầy những lọc lừa và xảo trá, có
nhiều nỗi khổ đau, nhưng dẫu sao cũng vẫn còn đáng sống. Tội gì phải hủy hoại
thân mình, nhất là sau khi đã đối chọi và chiến thắng căn bệnh nan y.
Anh thẫn thờ bước ra đường rồi lầm lũi bước nhưng chẳng
biết đi đâu cho đến khi thấy một quán nước hãy còn mở cửa. Anh bước vào. Đã lâu
lắm rồi anh không đi lang thang như thế hay sống qua đêm trong những quán mở
khuya.
Ở một bàn kê
trong góc quán có một cô gái da đen khá đẹp, ngồi một mình. David nhìn cô và
mỉm cười, cô gái cũng cười theo, phô hai hàm răng trắng và đều như răng chuột.
Họ gợi chuyện làm quen và lúc sau cùng
bước ra khỏi quán trong đêm lạnh
lẽo đầy sương mù. Anh đưa Julie về nhà mình. Khi ôm cô trong vòng tay rắn chắc
anh cảm thấy lòng mình ấm lại và thân thể nóng bỏng của cô ta đã làm anh rạo rực. Đã từ lâu anh không còn cái cảm
giác buông xuôi. Bản năng đàn ông trong anh vùng thức dậy và bừng lên ngọn lửa.
Anh ôm siết cô vào lòng, ve vuốt, chải những ngón tay trong mái tóc mềm mại của
Julie. Mùi thơm của cô gái toả lan nhè
nhẹ như hun đốt thêm làm anh càng siết chặt bờ vai cô gái đang run lên lẩy bẩy.
Đến khi cởi hàng nút áo, trên làn da đen
láng lộ ra đôi vú dậy thì căng cứng, anh gục đầu xuống như đứa trẻ tham lam rồi quên đi tất cả những cay
đắng vừa qua. Tự dưng anh thấy mình vô cùng thương yêu cô gái bất ngờ xuất hiện, đến từ một cõi nào xa vời vợi,
đang vuốt ve và âu yếm anh trong yên lặng, như một điều tự nhiên , không có gì
phức tạp và đớn đau.
David yêu cầu Julie ở lại
với mình và những chiều David đi làm về
cô hay ngồi trên divan chờ đợi. Từ xa trông thấy ánh đèn cửa sổ le lói, lòng
anh bỗng trào dâng một cảm xúc diệu kỳ và ngay lúc bước vô, anh ôm chầm lấy cô, nâng bổng lên và quay một vòng
rất mạnh.
*
Hạnh phúc đến đột ngột làm David ngây ngất. Nhưng chỉ
vài tháng sau Julie lặng lẽ bỏ đi không một lời giải thích. David không làm sao
hiểu được lý do. Nhà cửa lúc cô đi vẫn hoàn toàn ngăn nắp và không hề mất mát
một vật nhỏ nhoi nào. Con chim đen của anh đã vỗ cánh bay đi như những ảo ảnh khác
trong đời.
*
Hơn năm sau, bệnh tình của David lại tái phát nên phải
nhập viện. Lúc này tóc anh đã rụng nhiều nên không còn lọn tóc thường rơi phủ mắt. Tôi linh cảm là
anh sẽ không còn sống bao lâu nữa khi những tế bào ung thư theo mạch máu lan đi,
nên mỗi tuần tôi đến thăm anh ít nhất hai lần. Anh cũng thừa biết thế, nhưng
bản năng sinh tồn đã giúp anh chống chõi với nỗi nguy hiểm cận kề, thế nhưng
nỗi đam mê công việc trong anh vẫn không hề giảm sút. Một hôm
anh bảo: Mầy biết không, hồi sáng cô y tá có thoa một loại kem rất mới
để cạo râu cho tao, mịn và mùi thơm rất dịu. Tao đang nghĩ là hôm nào sẽ
làm một công thức như vậy, chắc lời cao.
Tôi yên lặng, không biết nên cười hay nên khóc. Đến nước này anh vẫn còn nghĩ
đến chuyện làm ăn và tin rằng tiền bạc sẽ giải quyết được mọi điều.
*
Bẵng có một tuần bận việc không đến thăm mà khi trở
lại tôi khựng lại trên ngạch cửa. Tôi
ngần ngừ không biết nên vào hay chăng. Lúc đầu tôi cứ tưởng là bệnh viện đã đổi
phòng cho David.
Trước mặt tôi hình như không phải là David. Đó là một
người đàn ông cao lêu nghêu và gầy kinh khủng. Hai đường rãnh thật sâu kéo dài
từ sống mũi đến cằm. Hàm râu lâu ngày không cạo, lởm chởm phun những chấm đen
đầy trên khuôn mặt. Anh đang liếm một que kem, xin lỗi người bạn đã một thời
gắn bó với tôi, hình ảnh đó giống như
con khỉ đói trong sở thú. Tôi bụm mặt bước ra ngoài, chạy dọc theo hành
lang và khóc lên nức nở. Trời ơi ! Sao bạn tôi
lại đến nông nổi này!
Tôi quay trở vào sau khi đã lấy lại bình tĩnh và lau
khô nước mắt. Trong David chỉ còn đôi mắt sáng, nhưng tia nhìn hình như mang
nặng những lo âu.
Khi thấy tôi, David cố gượng cười. Sau vài câu thăm
hỏi thường lệ, anh cho biết là ăn không ngon, chỉ có khát, và nhờ tôi tẩm khăn
ướt đắp lên trán. Lát sau anh nói lâu ngày không vận động nên thấy tù túng quá. Tôi đỡ anh ngồi lên xe lăn, thu
xếp các ống nhựa, rồi đẩy anh ra khỏi phòng, đi đến cuối hành lang rồi quay
lại. Đến vòng thứ hai anh bảo tôi ngừng
và yêu cầu tôi mở cửa. Lúc đó trời đã vào thu và tôi sợ là gió lạnh về
chiều sẽ làm anh khó chịu, nhưng giọng nói của anh nghe sao tha thiết quá. Tôi
dìu anh đến bên cửa sổ và mở tung cửa kính. Anh gượng đứng lên, mắt đăm đăm
nhìn khoảng trời mở rộng. Anh đứng bất động một đỗi rất lâu rồi quay sang tôi:
“Nhìn kia Trung, những đám mây kia đẹp quá. Nhẹ nhàng và mềm mại như bông. Mầy
có thấy từ mặt trời đỏ rực những tia nắng nhiều màu xuyên qua mây rồi
chiếu xuống theo hình nan quạt kia không? Hoàng hôn! Một cảnh sắc tuyệt vời. Thú
thực đây là lần đầu tiên tao thấy nó. Trong đời tao, chưa bao giờ tao có
thì giờ, tao-chỉ-nhìn-chứ-chưa-bao-giờ-thấy!”
Tôi lặng đi. Có
cái gì cay đắng chẹn ngay cổ họng nên không thốt ra lời. Dường như David còn nói gì thêm,
mà tai tôi ù đi, mơ hồ, nghe không rõ .
Về sau tôi mới hay tin là ngay đêm ấy David đã vĩnh viễn từ giã cõi đời. Năm
ấy bạn tôi chỉ vừa bốn mươi lăm tuổi.
Milano 9-95
T.V.D
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét