Tác giả Vũ Thị Huyền Trang
Vũ Thị Huyền
Trang sinh ngày 02/07/1987
Quê quán:
Phú Thọ
Tác phẩm đã
xuất bản:
-
Cỗ xe máy (Tập truyện ngắn thiếu nhi) – NXB Kim Đồng.
-
Khi không còn bà (Tập truyện thiếu nhi) – NXB Kim Đồng.
-
Giặc bên Ngô (Tập truyện ngắn) – NXB Văn hóa Văn nghệ
TP. HCM, 2011.
Giải thưởng:
-
Giải nhì Cuộc thi truyện ngắn báo Phụ nữ TP. HCM 2009.
-
Giải nhì và giải khuyến khích Cuộc thi viết do báo Thể
thao & Văn hóa tổ chức.
-
Giải nhì và giải khuyến khích Cuộc thi truyện ngắn báo
Tiếp thị & Gia đình 2010.
“Lũ chúng ta
ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con
đè nát cuộc đời con…”
Chế
Lan Viên
Chị ngồi vẹo
cổ ngắm nắng qua ô cửa sổ. Cái dáng ngồi thất thểu đến tội nghiệp ấy không làm
cho mấy vạt nắng vàng đang nhảy nhót ngoài kia bớt lung linh.
Chỉ có điều mảnh
vườn nhỏ quá, nó chỉ bằng một thẻo đất nhỏ mà ở quê người ta vẫn thường chừa
lại làm lề. Thế mà chị cố trồng được đủ thứ, hai dãy hoa sen cạn chạy dài, một
giàn hoa tầm xuân leo kín tường, một cây ớt lúc nào cũng sai quả lúc lỉu để bố
chồng ngâm măng. Riêng phần của mẹ chồng là mấy cây đinh lăng, vài ba bụi cối
xay, cỏ sữa, cam thảo đất. Toàn mấy thứ thảo mộc chị lấy tận quê ngoại xuống để
mùa hè bứt cành phơi uống nước cho hạ nhiệt. Vậy thôi cũng đã chật cứng cả
vườn, chật đến mức muốn đi hái thứ gì là phải lách nghiêng chân để tránh dẫm
vào cây cỏ. Thế mà mấy hôm nọ chồng chị mua về cả đống hạt rau diếp cá, xà lách,
húng chó, tía tô... Anh bảo trồng lấy một khoanh để mỗi bữa có rau sống mà ăn.
Anh nhìn một lượt khu vườn, chỉ đúng chỗ hai hàng hoa sen cạn rồi bảo “hoa hoét
làm gì, có ăn được đâu”. Nói xong phăng phăng nhổ hết hoa của chị và gieo hạt
rau xuống đó. Đấy là cái lí do của mấy ngày hôm nay chị hay ngồi nghển cổ nhìn
ra mảnh vườn tiếc nuối…
Chị đang
ngồi ước giá mà lòng chị cũng nhảy nhót reo vui được như những tia nắng kia,
thì tiếng chuông điện thoại bàn đổ dồn khiến chị giật mình vỡ vụn dòng suy
nghĩ. Ở đầu dây bên kia anh dặn gọn lỏn vài từ “Anh bận. Không về ăn cơm đâu”
rồi cúp máy. Chị thở dài nghĩ ngợi, con thì đứa đi du học đứa về quê ngoại nghỉ
hè, chồng thì đi nhậu nhẹt vậy còn nấu nướng làm gì cho mệt, chị thì ăn linh
tinh gì chả được. À! Phải nấu chứ, không nấu lấy gì cho con mèo lười ăn, tính
nó rất quái bữa nào cũng phải có cơm trộn cá. Mà phải là cơm nóng, chứ mấy hạt
cơm nguội khô là nó ngoảnh mông đi một mạch không thèm đắn đo. Có nhiều hôm
thấy chị vắng chồng con ngồi nhai cơm nguội một mình bị nghẹn nấc lên nấc
xuống. Nó ngồi chễm chệ trên cửa sổ kêu ngoeo ngoeo ý bảo “đấy bà chủ thấy
chưa, cơm khô khốc thế đến bà còn nuốt không nổi cớ sao bắt tôi ăn”. Chị lườm
lườm nó trách “mày thì làm được cái gì, chuột thì không có để bắt, suốt ngày
chỉ kêu đòi ăn luốn cuốn vướng chân”. Nhưng mà nếu không có nó bầu bạn, chắc
chị sẽ héo rũ trong mùa hè này mất.
Lúc chẳng có
việc gì làm, chị mang những bức tranh của đứa con gái lớn ra sắp xếp lại. Nếu
chị không động tay vào chúng thì bụi sẽ phủ mờ, bụi còn sẵn sàng nhấn chìm cả
phòng vẽ trên tầng bốn. Từ khi nó đi du học, căn nhà này như tắt hẳn một mảng
màu rực rỡ, màu của tuổi trẻ. Chị ngồi nhớ khi nó còn ở nhà, nó thường diện đồ
rộng thùng thình, cắt tóc ngắn như con trai, miệng cười tươi như hoa và trốn
nhà đi bụi như cơm bữa. Chả cần son phấn, mascara cũng chẳng cần nề hà phép
tắc, chị cảm tưởng con bé cứ sống hồn nhiên bản năng như cây cỏ. Gặp gió thì
lay, gặp mưa thì mát, gặp nắng thì trổ hoa ngông nghênh, thách thức. Ấy vậy mà
chính chị lúc nào cũng mong muốn uốn nắn, bẻ cong cái mầm xanh mơn mởn ấy giống
như người ta uốn bờ rào, cây cảnh để mãn nhãn người đời. Cuối cùng thì được gì?
Con bé căng cựa vuột xa vòng tay chị. Thời gian đầu chị đã từng rất đau khổ vì
nghĩ mình đẻ con ra mà mất con, đến ngay cả tâm tính nó thế nào chị cũng không
nắm bắt được. Nhưng bây giờ mỗi khi ngồi một mình trên phòng vẽ của con, chị
lại nở một nụ cười pha lẫn chút tiếc nuối xót xa. Chị mừng vì nó ít ra đã dám
sống thật với bản thân mình. Hơn chị của ngày xưa…
* * *
Chị ngày xưa
từ quê lên phố học. Bươn chải trầy trật mới tồn tại vất vưởng ở thành phố này.
Giống như hầu hết những đứa con gái tỉnh lẻ khác, chị mơ ước được ở lại thành
phố này. Không hẳn vì chị thích sự năng động nơi đây, nói đúng hơn là chị đã
mệt nhoài. Nhưng chị sợ cảm giác bị thất bại khi phải lủi thủi về quê. Sợ sẽ
chìm đắm trong những ngày dài ở quê chờ việc. Sợ nỗi ám ảnh nghèo đói, vất vả
của đời chị sẽ kéo dài cho đời con cái sau này nếu cứ bám lấy miền quê khốn
khó. Chị bắt đầu kiếm tìm mọi cơ hội cho mình, giống như đi tìm một tấm vé
thông hành để trở thành người thành phố. Ước mơ của những đứa con gái tỉnh lẻ
lúc ấy chỉ có thế. Nó mãnh liệt hơn tất thảy mọi nhu cầu. Nó vùi lấp những mơ
ước cao đẹp khác. Dù cho không ít người có miễn cưỡng phủ nhận nó nhưng vẫn cứ
lao vào cuộc kiếm tìm điên cuồng trong cái vẻ thản nhiên thường thấy.
Chị đẹp. Đàn
ông theo chị nhiều, giàu sang hay nghèo hèn đều có, trai tỉnh lẻ hay trai Hà
Nội cũng đủ cả. Sẽ là dễ dàng có được tấm vé thông hành làm công dân thành phố
lâu dài nếu như trái tim chị lại không trót yêu một chàng trai nghèo tỉnh lẻ.
Sự đời vốn cứ thích tréo ngoe như thế mới đủ thử thách con tim. Mới có một ngày
như hôm nay chị ngồi đây mà tiếc nuối. Suy cho cùng chị cũng giống như con nhện
sống ba nghìn năm trước cửa miếu Phật Bà Quan Âm(*). Hàng ngày ngập trong
khói hương và những lời cầu khấn vẫn chỉ
ngộ ra rằng ở đời thứ quý giá nhất là thứ không có được và thứ đã mất đi. Dù
sau đó khi nhện được Phật cho vào sống cõi người dưới thân xác Châu Nhi. Để rồi
trải qua nhiều buồn đau cuối cùng đã nhận ra thứ quý giá nhất chính là hạnh
phúc hiện đang nắm giữ chứ không phải là thứ không có được và thứ đã mất đi.
Còn chị chắc kiếp trước tu chưa thành tâm nên kiếp này vẫn chỉ tiếc giọt sương
từng đến bên đời mình rồi rơi vỡ mất. Hình như ai trong chúng ta cũng vậy thôi,
mỗi người mang giấc mơ về một giọt sương đã được cơn gió Trường Phong mang đến
rồi mang đi sau khi lỡ gieo vào lòng ta giấc mơ lấp lánh màu hạnh phúc. Thế nên
chị cứ nhớ mãi về người đàn ông đó, người mà chị đã từng yêu.
…Người từng
vẽ lên trong kí ức chị một giấc mơ bình yên ấy là Phương. Phương từng bảo:
- Chúng ta
sẽ hạnh phúc trong một ngôi nhà nhỏ có khu vườn rất rộng. Đất đai quê anh trù
phú lắm, cánh đồng và gió trời, tiếng chim và hương hoa. Nơi đó em cứ việc
trồng thật nhiều loài hoa mà em thích, một vài cây vú sữa cho các con và thật
nhiều vị thuốc. Em ở nhà viết văn chờ anh sau mỗi chuyến chở hàng về là ngôi
nhà lại tràn ngập tiếng cười. Nên hãy theo anh về quê đừng bon chen chốn đô
thành này không hợp với em đâu.
Chị coi đó
là một lời cầu hôn nhưng đã bị chối từ dù anh đã vẽ ra một thế giới bình yên
chị đã từng ước mơ trong thẳm sâu ý nghĩ. Chị chối từ vì chị sợ những giấc mơ
đẹp đẽ quá thường không thành hiện thực. Nhất là khi nghề lái xe đường dài của
anh với bao nhiêu trắc trở sao có thể trở thành bến đỗ bình yên của chị. Chưa
kể về trình độ học vấn và hoàn cảnh gia đình Phương cũng thua kém chị nhiều.
Chị yêu Phương thật lòng nhưng chị cần một người đàn ông giỏi giang hơn mình
mới có thể chở che cho chị cả cuộc đời. Phương đã xoáy vào lòng tự ái thẳm sâu
trong chị khi nói rằng thành phố này không phải là nơi dành cho chị. Chị sợ cảm
giác thất bại. Phải rời bỏ một nơi nào đó trong hối tiếc cũng là một thất bại.
Vì thế chị đã chọn Phan để là người bám trụ lại Hà Nội duy nhất trong số đám
bạn thân hồi đại học. Chiếc vé thông hành đã có, chị quay cuồng nửa đời người ở
đất này, ngoảnh lại thấy cô đơn một cõi…
Xót xa tìm
thương nhớ tuổi đôi mươi…
* * *
Chị ngồi lau
bụi trên từng bức ảnh của con. Mỗi vệt lau lại hiện ra một mảng màu mơ ước. Bức
tranh nào cũng ẩn hiện một cánh cửa, cánh cửa đó bị đóng kín nhốt chặt một đôi
mắt đang hừng hực lửa như muốn thiêu đốt tất cả. Chị có cảm giác như có cái gì
đó tức tưởi, muốn căng cựa, giãy giụa để trốn thoát sự kìm hãm, tù túng. Chị nhìn
rất kĩ từng bức tranh, trái tim chị đau buốt khi nghĩ về những ngày dài nhốt
chặt con trong phòng vẽ. Chị giả vờ như không nghe thấy tiếng đập cửa, tiếng
gào khóc van xin của con. Chị chỉ nghe thấy sự hả hê trong trái tim một người
mẹ đã từng bất lực về đứa con ngang bướng. Những ngày sau con hoàn toàn câm
lặng. Dù cho chị hoảng sợ đã mở toang cánh cửa thì con vẫn ngồi đó không bước
chân ra thế giới bên ngoài. Chỉ sống nhờ thùng mì tôm, nước lọc và một cái nhà
vệ sinh khép kín. Lúc nào chị bước vào cũng thấy con cặm cụi vẽ. Những cánh cửa
và đôi mắt, chớp mi tựa mặt hồ thu…
Chị thích
tất cả những bức tranh con vẽ như thể con bé không chỉ vẽ cho nó mà vẽ cho cả
sự tù túng trong cuộc đời của chị. Chị đã sống quá nhiều cho lý trí. Giống như
một cỗ máy luôn được nâng cấp, lập trình những thứ hiện đại nhất. Cuộc đời đã
nhấn nút, cỗ máy cứ thế mà hoạt động. Người máy thì không có trái tim. Còn chị
thì dường như đã đánh rơi trái tim mình ở đâu đó khi mang lời cầu hôn của một
người đàn ông thả lên trời. Chị giờ ngồi đây tưởng tượng ra khu vườn thật rộng,
chị ngồi đọc sách trên một chiếc xích đu màu trắng. Dưới tán cây râm mát chim
chóc hót véo von, vào mùa thu lá vàng phủ đầy lối đi, phủ êm đềm những giấc
trưa không mộng mị. Chị
sẽ viết những câu thơ mang đôi cánh của gió, mang màu sắc của hoa và tiếng nói
cất lên từ tâm hồn chân thật nhất.
Ở
mảnh vườn như thẻo đất thừa này hàng ngày chị nhìn những loài cây chen chúc
nhau để đón ánh nắng, để mọc chồi, đơm bông. Khi chị ngồi bên cửa sổ đọc sách,
những câu chữ như cũng đang căng cựa muốn nhảy bung khỏi trang giấy đóng khung.
Mọi thứ đều trở lên ngột ngạt và nhễ nhại. Thằng nhỏ nhà chị chỉ mong nhanh đến
hè là ra tàu về quê ngoại để tránh lịch học hè dày đặc. Để được theo ngoại đắp
mương tát tép, được lẽo đẽo theo thằng em con nhà chú đi thả diều trên núi,
được lùi luột ngô khoai nhem nhuốc những ngày hè. Mỗi lần con từ quê điện lên,
chị nghe thấy trong tiếng cười vô tư lự của con dường như có chút tiếc nuối vu
vơ của chị. Con bảo:
-
Dạo này chiều nào ngoại cũng phải lên núi tìm con. Cứ thả diều một lúc thấy gió
thổi mát rượi là nằm xuống ngủ quên lúc nào không biết. Con biết chỗ nào ngày
xưa mẹ hay mang ngô lên nướng, biết cả chỗ mẹ ngồi trú mưa những hôm đi chăn
trâu. Bây giờ cái hốc đá đó mọc lên toàn nấm, nấm gì hay lắm mẹ ạ, có rất nhiều
màu sắc.
Chị
nghe con kể mà muốn trốn phố về quê. Muốn bỏ lại căn nhà bốn tầng lúc nào cũng
thấy thiếu tiếng người. Chồng chị đi công tác suốt ngày, đôi khi chẳng phải vì
công việc anh cũng vui thú bạn bè ở một miệt vườn xa lắc lơ nào đó. Hình như
trong nhà chị ai cũng chán phố nên bỏ lại ngôi nhà này cho chị trông nom. Chiều
nay đứa bạn thân điện hỏi thăm, sau tràng cười giòn tan, sau câu chuyện công
việc chồng con, bạn không quên hỏi chị một câu đau đến điếng lòng:
-
Thế nào, làm người thành phố có thấy thích không?
Chị
bỗng tắt nụ cười, mắt rơm rớm bảo:
-
Dạo này chưa gì đã mắc bệnh tuổi già. Ngày nào cũng chỉ ngồi nhớ cố hương thôi.
Bạn
lại bảo:
-
Mình chuyển về đây công tác đã chục năm rồi, gấp đôi cả quãng thời gian đã sống
ở dưới đó. Vậy mà thi thoảng vẫn nhớ phố đến cồn cào nữa là…
-
Vậy hóa ra chúng ta thiếu cái gì thì nhớ cái đấy à?
-
Cũng có thể là vì ai cũng cần phải có một cái gì đó để tiếc nuối, nhớ nhung.
Nỗi nhớ cũng giống như một món đồ trang sức càng đẹp thì càng đắt. Đời ảo nhỉ?
Chị
cười bảo bạn dạo này học đâu cái thói ưa triết lý. Ở đầu dây bên kia không thấy
có tiếng cười. Nắng bên này cũng tắt. Con mèo nằm quận tròn trên cửa sổ lim dim
mắt. Chị lại nhốt mình trong phòng tranh của con gái và ngắm nhìn những đôi mắt
đang căng cựa.
V.T.H.T
(*) Câu chuyện về con nhện trên cửa
miếu Phật Bà Quan Âm.
Một truyện ngắn hay. Cách phân tích diễn biến nội tâm đan xen của nhân vật, lôi cuốn người đọc. Xin cảm ơn tác giả!
Trả lờiXóacảm ơn bạn đã đọc và chia sẻ. Chúc bạn vui!
Xóa