Nhà thơ Hoàng Lộc (bên trái) và nhà văn Mang Viên Long
BÀN TRÒN VĂN NGHỆ THÁNG 10/2012 (Chuyên
mục đăng bài định kỳ vào thứ 7 hằng tuần)
Năm 1971, nhà thơ Hoàng Lộc cho xuất bản
tập thơ thứ hai của anh - tập "Trái Tim Còn Lại", và tôi có
dịp được đọc. Trong bối cảnh cuộc chiến đang ác liệt, đất nước dẫy đầy tang
thương, lòng người hoang mang trước viễn tượng đen tối - "Trái Tim Còn
Lại" đã là luồng gió tươi mát, mới lạ - trong sinh hoạt văn học lúc
bấy giờ. Nó cần thiết cho mọi người - nhất là giới trẻ... Và tôi đã kịp viết
bài nhận định, giới thiệu Trái Tim Còn Lại trên tuần báo Khởi Hành... (do nhà
thơ Viên Linh chủ trương).
Ba mươi bảy năm sau - tháng
6/2008, trong lúc lang thang trên mạng, tôi tình cờ ghé Hoangloc.vnweblogs.com,
đọc được bài thơ "Lạc
Địa" của anh. Đây là bài thơ đầu tiên của Hoàng Lộc tôi được đọc lại
sau một thời gian gần nửa đời người!
Tôi thầm nghĩ "Lạc Địa" là xa rời đất, rớt xa đất - rơi
xuống đất hay cũng có thể hiểu là "cuộc đất lạc lõng". Tôi
tự hiểu theo ý của mình - và đặt cho nó một cái tên cho dễ nhớ: "Xa Quê"!
"Lạc Địa" là một
bài thơ khá dài, gồm sáu đoạn thất ngôn tứ tuyệt. Tôi đã đọc đi đọc lại nhiều
lần - lần nào cũng cảm thấy một nỗi buồn man mác, và sau cùng là một niềm vui
sâu kín nhẹ nhàng... Buồn, vì biết nhà thơ "đang sống" như
vậy - Vui, vì biết nhà thơ "đang là" như vậy.
"Cây đã già
đời, đem bứng gốc,
Sót
đôi chút rễ, vứt bên trời...
Tiếng
kêu cứu gửi từ tâm đất,
Dơ
dáng hình, cây đứng lẻ loi!"
Cây nhờ có đất mà sống.
Cây bám rễ vào lòng đất để có dưỡng chất nuôi sống mình. Mà "cây đã
già đời" thì gốc rễ càng dài, càng sâu. Nhưng, một ngày kia (...)
người ta đã vô tâm "đem bứng gốc". Và thế là cây xanh hồn
nhiên kia đã trở nên là "một nạn nhân" của cuộc vô thường
đảo điên nọ!
Rời xa đất, chỉ còn
"sót đôi chút rễ", thì bị đem "vứt bên trời"(!).
Cây oằn đau kêu cứu từ lòng đất thẳm sâu, mà nào ai có nghe? Trong Phật ngữ,
"Tâm địa" (Đất Tâm), chỉ cho tâm hồn, tấm lòng của mỗi người
- giữ được cho tâm như đất, nghĩa là "vô chấp" thản nhiên
trước mọi đổi thay, vinh - nhục (...) là một việc khó, không phải ai cũng có
thể làm được! Nhưng mà nhà thơ được xem là sứ giả - người truyền thông, nhà
giao cảm có trách nhiệm phát hiện và giải bày mọi kinh nghiệm, cảm nhận của
thực tế đời sống- (mà chúng ta gọi là "thực tại"). Bốn câu
mở đầu cho bài thơ nêu lên một thực tại nóng bỏng, đau xót - không chỉ riêng
cho tác giả, mà có thể là nỗi bi thiết chung cho nhiều thân phận "Xa
Quê" hôm nay(!).
"Ta
cũng già rồi, qua xứ khác,
Tiêu
điều thân thế lúc cây khô!
Hiểu
sao quít ngọt về Giang Bắc,
Giỏi bấy tay trồng cũng hóa
chua...".
Tiếp sau hình tượng cụ thể "cây đã già đời đem bứng gốc" rất
sắc và mạnh - nhà thơ có một sự so sánh rất vi tế, rất gợi cảm: "Ta
cũng già rồi, qua xứ khác". Ta và cây - có gì khác nhau đâu? Tuổi 50
của đời người cũng là tuổi "xế chiều" rồi. Đã trải qua hết
hai phần ba thời gian có mặt ở trên cõi nhân gian đầy thăng trầm biến động này,
nên "Tiêu điều thân thế lúc cây khô" là một hệ quả tất yếu
của cuộc sinh diệt trầm luân!
Lại thêm một so sánh thật nhẹ, thật sâu - mở ra cho người đọc biết bao điều
thầm kín mà vạn lời cũng không kể xiết: "Hiểu sao quít ngọt về Giang
Bắc/ Giỏi bấy tay trồng cũng hóa chua!". Quít ngọt Giang Nam
đưa về Giang Bắc thì dù có cần mẫn chăm sóc tưới tẩm - thì làm sao mà ngọt
được? Nó đã bị xa lìa miền "thổ nhưỡng/ khí hậu" cần thiết
để phát triển, thì làm sao mà "ngọt ngào" đây?
"Cơm
áo nghe ra đời quá cực,
Bỏ
bê nghiên bút kể nhiều năm!
Hiểu
sao "nhị cú tam niên đắc"
Chỉ
nửa câu đây đủ khóc ròng!"
Cái "quá cực"
của chuyện cơm áo cũng không chua xót bằng việc "bỏ bê nghiên
bút" đối với một nhà
thơ! (của người nghệ sĩ / kẻ sĩ - nói chung). Cơm áo thì ở đâu cũng quá cực khi
sống lương thiện, thanh bạch. Cơm áo nuôi thân. Nghiên bút nuôi Tâm. Nuôi thân
còn dễ (vì tương rau thôi cũng đủ), nhưng nuôi Tâm thì quả là nan giải! Xa lìa
quê nhà - rời xa kỷ niệm, người thân yêu (...) để "rơi vào" một miền
đất xa lạ thì làm sao không "Dơ dáng hình, cây đứng lẻ loi"?.
Ngày xưa, ở Trung Hoa - thi hào Giả Đảo (793 - 865) từng tâm sự - muốn có được
hai câu thơ, ông phải mất ba năm ròng rã!("Nhị cú tam niên đắc").
Ngày nay, Hoàng Lộc đã kêu lên : "Chỉ nửa câu thôi đủ khóc ròng".
Ôi ! một tâm tình quá đỗi bi thiết, quá đỗi lãng mạn, và cũng quá đỗi hồn
nhiên!
"Hiểu
sao đắng miệng mà không uống,
Nghiêng
lưng chén lớn nỗi ơ hờ...
Gió
- như gió bấc bên chiều mộng,
Thương
thằng bạn rượu ở quê xưa!"
Khát đến "đắng
miệng" mà vẫn không chịu uống. Bưng ly rượu lên mà lòng bỗng
chùng xuống, bơ thờ! Chỉ 14 chữ, hai câu thơ đã vẽ nên bức chân dung rất thực,
rất đậm về tác giả. Tâm tình kia có ai hay? Dáng dấp này có ai để ý? Người ta
đã vô tâm như đã vô tâm trước bao thảm trạng của đời người, của Đất nước!
Biết chia sẻ cùng
ai? - "Gió - như gió bấc bên chiều mộng". Có gió. Gió bấc
ở đâu? - "Bên
chiều mộng". Gió bấc trong một chiều thơ mộng xa xưa nào đó ở
chốn cũ - ở quê nhà, đã miên man tràn về tâm thức như lời réo gọi người lữ
khách tha hương: "Thương
thằng bạn rượu ở quê xưa".
"Bạn rượu" là một cách nói thân thiết khi nghĩ đến bạn văn
nghệ, bạn tri âm, bạn cũ (...) đã từng sống, từng sẻ chia bao nỗi gian truân
bất hạnh, hay từng lắng nghe nhau bao khát vọng hiến dâng thầm lặng của một
thời quá vãng. Nhìn ly rượu ngon, bỗng nhớ bạn hiền. Đó là một tấm lòng. Rượu
ngon mà vắng bạn hiền - thì liệu rượu có còn nồng nàn, ấm áp nữa chăng?
"Biết
sống, dễ van cầu đắc chí,
Miễn
đừng tới tấp những hư hao...
Ta vẫn đầu sông, em cuối
bãi,
Chờ mãn đời đi để... mất nhau!"
Sau phút giây đắm chìm trong cõi nhớ thương khắc khoải- nhà thơ đã có
cái nhìn tỉnh táo trở lại - ý thức rằng, dòng sống vẫn đang trôi chảy, thầm
nghĩ- như lời tự nhủ : "Biết sống, dễ van cầu đắc chí / Miễn đừng tới tấp
những hư hao!". Và
cái "thực tại chia lìa" kia luôn là nỗi ám ảnh cho bao trăn trở trong
đời : "Ta vẫn đầu sông, em cuối bãi". Đến đây tôi chợt nhớ một lời
dạy trong kinh Phật: "Kẻ vô ơn, bạc nghĩa - dầu ở gần, cũng hóa xa. Còn
người tri ân, nặng nghĩa - thì dù ở xa, cũng rất gần". Tuy trên "hình
tướng" là "đầu sông/ cuối bãi", là "mất nhau"!
("chờ mãn đời đi để ... mất nhau")- nhưng trong cõi tâm thức uyên
nguyên vô hình - nhà thơ không bao giờ xa, không bao giờ mất cả! Biết
"mất" là không "mất" tí
nào!
Đoạn kết :
"Ngồi
góc quê người coi lá rớt,
Bỗng
mừng khi là mắc lên cây...
Thà
khô héo chết theo cành mục,
Hơn
phải sa cơ rụng đất này!"
Bài viết về nhà thơ
Hoàng Lộc (qua tập "Trái Tim Còn Lại" - 1971) tôi không còn
báo, cũng không còn bản thảo- nhưng tôi nhớ như in một điều: "Hoàng
Lộc chỉ làm thơ tình, vì tâm hồn anh quá thật, quá sáng - không thể nói khác
hơn lời từ trái tim mình!". Đọc 4 câu cuối của bài "Lạc Địa" hôm nay-
tôi cảm thấy mình có cơ sở để tin tưởng như vậy. Bài thơ là sự thu gọn
của đời sống đang diễn tiến, đang trôi chảy, cả ánh sáng và bóng tối, nụ cười
và nước mắt, mãn nguyện và thất vọng, do vậy, cho dù thực tại có như thế nào -
thì nhà thơ vẫn không hề xa lìa đời sống đang là. Càng thấy rõ thực tại bao
nhiêu, nhà thơ càng có những câu thơ bất hủ bấy nhiêu. Bốn câu kết trong "Lạc
Địa" của Hoàng Lộc, là những câu thơ như thế!
Ngồi thu mình ở một góc
phố xa lạ nào đó- không phải để chiêm ngưỡng vẻ đẹp nguy nga lộng lẫy nhà cửa
người xe, mà để ... "coi lá rớt" . Phút giây tĩnh lặng trở
về với chính mình, với thiên nhiên ngàn đời hồn nhiên chung thủy đã đem lại
phút giây thảnh thơi kỳ diệu: "Ngồi góc quê người coi lá rớt".
Tôi tự hỏi: Có mấy ai đã từng "coi lá rớt" như thế nhỉ?
Sự xuất hiện tình cờ của một chiếc lá rơi, rồi chiếc lá "mắc lên cây"
- đã như một giọt nước mầu nhiệm làm tràn đầy tâm thức nhà thơ đã bao năm trăn
trở, ấp ủ - phút giây "đốn ngộ" chợt đến: "Thà
khô héo chết trên cành mục / Hơn phải sa cơ rụng đất này!". Phải
thiết tha sinh tử với "Tình Quê" mới có sự tỉnh giác cao độ
để bật ra lời thơ thống thiết như vậy! - "Bỗng mừng"
là một sự trở về, là sự "hồi đầu bỉ ngạn" rất quan trọng của
một đời người! Chúng ta hiểu, nhà thơ là người có khả năng phát hiện ý nghĩa
của đời sống và diễn đạt ý nghĩa ấy ra, truyền thông cho người khác, góp phần
xây dựng đời sống trở nên tốt đẹp - trở nên "nhân bản" hơn; chứ khôn phải sử dụng kỷ xảo ngôn
từ để lừa mị, để làm hoen ố đời sống. "Bỗng mừng khi lá mắc lên cây"
là một trực nhận rất nhân bản, rất thực, rất Người...
Đọc "Lạc Địa"
của Hoàng Lộc tôi vừa thương nhớ Anh, vừa trân trọng Anh. - một nhà thơ suốt
đời luôn trân quý một "chữ Tình"!
Tháng 5/2008
M.V.L
(*)Trong tập Tiểu luận &
Tạp bút Như Những Giọt Sương – NXB Hội Nhà văn, 2012.
Thăm Duyên! Sáng thứ 7 - được thư thả chút - ghé vào thăm HQN. Lại được đọc Thơ Bạn! Cám ơn nhé! Chúc Cậu & gia đình & bằng hữu HQN ngày cuối tuần An Vui!
Trả lờiXóaEm chào anh,
XóaCảm ơn anh đã ghé thăm HQN. Chúc anh sức khỏe, vui cùng thân hữu!
Bài viết hay! Người viết bài nầy cũng trân quý một chữ tình.
Trả lờiXóa