Những năm đầu thế kỷ
XX, các trào lưu văn học phương Tây ảnh hưởng vào văn học Việt Nam
rất mạnh mẽ. Lịch sử văn học Trung đại Việt Nam là lịch sử của tiến trình tiếp
biến văn hóa, văn học của các nước trong khu vực, đặc biệt là của nền văn minh
Trung Hoa, theo cách riêng của người Việt Nam. Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX, văn học Trung đại Việt Nam có nhiều biến động, đủ để chuẩn bị cho một sự
giao thoa mới, trở thành động lực nội sinh để tiếp biến các yếu tố ngoại nhập
từ văn học phương Tây, trong tư thế hoàn toàn chủ động.
Thơ mới ra đời như một
sự tích hợp nghệ thuật độc đáo những ảnh hưởng nghệ thuật của văn học nước
ngoài (nhất là văn học Pháp và văn học Trung Hoa) trên cơ sở văn học truyền
thống và nền văn học dân tộc Việt Nam.
Ra đời đầu thế kỷ XX,
nhưng Thơ mới hầu như được sáng tác theo mô hình, quĩ đạo của chủ nghĩa lãng
mạn Pháp thế kỷ XIX. Trong khi đó, đương thời, đầu thế kỷ XX ở phương Tây, chủ
nghĩa tượng trưng đã lan rộng và chuyển dần sang chủ nghĩa siêu thực. Các nhà
Thơ mới chủ yếu sáng tác đậm nét theo trường phái lãng mạn Pháp. Người đầu tiên
chịu ảnh hưởng sâu sắc trường phái lãng mạn Pháp là Thế Lữ. Theo giáo sư Phan
Cự Đệ, trong thơ Thế Lữ buổi đầu, đã có những ảnh hưởng của tản văn
Chateaubriand và tiếp đến, trong thơ Huy Thông với những cảm quan lịch sử hùng
tráng theo kiểu Victor Hugo. Về sau, từ Xuân Diệu trở đi, Thơ mới chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ của thơ tượng trưng Baudelaire, Verlaine, Rimbaud, Mallarmé...Yếu tố tượng
trưng còn ảnh hưởng sâu sắc đến thơ Huy
Cận, Chế Lan Viên, Bích Khê, Hàn Mặc Tử...Nói cách khác, trong thơ của các nhà
Thơ mới Việt Nam 1932 – 1945, có ít nhất là một đến hai nhà thơ hiện đại Pháp
hiện diện, tùy theo từng yếu tố đậm nhạt của các trường phái, khuynh huớng, chủ
nghĩa khác nhau mà họ chịu ảnh hưởng, tiếp thu một cách chủ động, tự giác và
sáng tạo. Chủ nghĩa tượng trưng quan niệm nghệ thuật không phải phản ánh thế
giới thực tại, thế giới của hiện tượng mà là một thế giới siêu tưởng, một thế
giới mơ hồ của sự tương hợp giữa ánh sáng, sắc màu, âm thanh, mùi hương và nhạc
điệu. Thơ tượng trưng được chủ thể cảm nhận bằng sự tương hợp giữa các giác
quan. Chủ thể tiếp nhận thơ tượng trưng cùng một lúc có thể nghe mùi hương, ngửi màu sắc và nhìn thấy
cả âm thanh như trường hợp các bài thơ: Đi
giữa đường thơm (Huy Cận), Huyền
diệu, Nguyệt cầm (Xuân Diệu), Chơi
giữa mùa trăng (Hàn Mặc Tử), Màu thời
gian (Đoàn Phú Tứ), Nhạc, Đồ mi hoa, Hiện hình (Bích Khê)... Các nhà tượng trưng xem thế giới hữu
hình chỉ là hình ảnh, là cái bóng, là biểu trưng cho một thế giới mà ta không
thấy được. Họ quan niệm chính cái không nhìn thấy đó mới là bản thể của thế
giới. Nhà thơ nhận thức thế giới bằng trực giác, bởi chỉ có trực giác mới nắm
bắt được cái đằng sau, vô hình; mới nhìn được thế giới đích thực mà ta không
nhìn thấy. Vì vậy, thơ- giờ đây đã có sự tích hợp, thăng hoa, từ nhiều yếu tố,
nhiều trạng thái. Nhà thơ, cùng lúc, phân thân và hội tụ các năng lực thế giới
bên trong và thế giới bên ngoài để bừng tỉnh trong không gian, thời gian, trong
tiềm thức, vô thức, trực giác, trực cảm, trong ấn tượng, tượng trưng... để làm
nên những “niềm kinh dị”, những vô
nghĩa lý nhưng hợp lý, những khả giải và bất khả giải trong thơ. Đến đây, có
thể nói, Thơ mới Việt Nam
1932 – 1945 đã có cuộc giao thoa, hội ngộ tân kỳ để làm nên những từ trường
thơ, những hệ hình thơ hiện đại, độc đáo... Cùng với lãng mạn và tượng trưng, trào
lưu siêu thực đầu thế kỷ cũng đã lan
tỏa vào Thơ mới. Yếu tố siêu thực đã bắt đầu ảnh hưởng đến các sáng tác của Chế
Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích khê, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng và nhóm Xuân Thu Nhã
Tập về sau. “Rõ ràng là không phải ngẫu nhiên mà cái nhạc điệu buồn buồn thầm
kín trong “Tiếng hát mùa thu” và “Mưa rơi dìu dịu trên thành phố” của Verlaine
lại vào được trong thơ Huy Cận, Lưu Trọng Lư. Cũng không phải ngẫu nhiên mà
“Núi xa”, “Gửi hương cho gió” của Xuân Diệu lại phảng phất tâm trạng của
Baudelaire trong “Chim hải âu” (1). Hoài Thanh - Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam cũng đã nhận xét: “Ảnh hưởng Pháp trong thơ Việt đến Xuân
Diệu là cực điểm..... Huy Cận cũng chịu ảnh hưởng thơ Pháp, gần đây, nhất là
Verlaine” (2) và Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử “Cả hai đều chịu rất nặng
ảnh hưởng Baudelaire và qua Baudelaire ảnh hưởng nhà văn Mỹ Edgar Poe, tác giả
“Chuyện lạ”. Có khác chăng là Chế Lan
Viên đã đi từ Baudelaire, Edgar Poe đến thơ Đường, mà Hàn Mặc Tử đã đi ngược
lại từ thơ Đường đến Baudelaire, Edgar Poe và đi thêm một đoạn nữa cho gặp
Thánh Kinh của đạo Thiên Chúa” (3).
Phải nói rằng Thơ mới
1932 - 1945 là một sự tích hợp nghệ thuật kỳ diệu, độc đáo trong lịch sử văn
học Việt Nam và nó đã đi trọn hành trình thi ca trước lúc hạ cánh để chuyển
sang bước ngoặt mới khi lịch sử đã sang trang. Một thế kỷ thi ca Pháp với những
đỉnh thơ lừng danh như: Lamartine, V.Hugo, Chateaubriand, Baudelaire, Verlaine,
Valéry, Mallarmé... đã được các nhà Thơ mới thâu tóm, tiếp biến trong vòng mười
ba năm! “Hơn một trăm năm của thơ Pháp với những trường phái lãng mạn, Thi Sơn,
tượng trưng, siêu thực... mà chỉ thu gọn vào có mười ba năm của phong trào Thơ
mới” (4). Thâu tóm, chắt lọc tinh hoa thơ Pháp, nhào nặn quyện hoà
với “hồn cũ Thịnh Đường” và ca dao, hát nói... để tạo nên một nền thơ với các đặc
trưng thi pháp chưa từng có trước đó, mở đường cho tiến trình thơ hiện đại Việt
Nam.
Dòng chủ đạo trong Thơ
mới ắt hẳn là thơ Pháp, nhưng dấu ấn Đường thi vẫn để lại trong Thơ mới khá đậm
nét với thi liệu ngôn từ, điển tích, điển cố và nhất là tính chất hài âm trong
lối thơ bảy chữ của Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử,Vũ Hoàng Chương, Leiba, Thái
Can... và âm hưởng Đường thi cứ vang vọng trong những bài thơ hành của Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính. “Sau Leiba, Thái Can, thơ Đường còn để lại
dấu vết ở Thâm Tâm, Vân Đài, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Lưu Kỳ Linh, Phan Khắc Khoan,
Vũ Hoàng Chương ... (5). Bề dày văn học trung đại với mười thế kỷ,
trong đó, thơ Đường được tôn vinh hàng đầu, ảnh hưởng của nó đã ngấm sâu vào
máu thịt của biết bao thế hệ trí thức Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Không
khó khăn gì để có thể nhận diện và kết luận những nhận định trên. Điều quan
trọng là, các thi sĩ Thơ mới đã tích hợp, chuyển hóa nhưng không hòa tan, không
rập khuôn thụ động; trái lại, có sáng tạo mới mẻ, tinh vi, biến nó thành giá
trị, chất lượng mới. Những ví dụ sau đây là một trong vô số những ví dụ: “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang / Tóc
buồn buông xuống lệ ngàn hàng.” thì không chỉ có một mà nhiều biện pháp
nghệ thuật tinh vi: ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, khác xa với một tầng ẩn dụ trong
thơ Đường và thơ Trung đại.
Hoặc từ: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị / Yên ba giang
thượng sử nhân sầu” (Hoàng hạc lâu – Thôi Hiệu) đến: “Lòng quê dợn dợn vời con nước / Không khói
hoàng hôn cũng nhớ nhà ” thì cả một trời cách biệt về tâm trạng, nỗi niềm
và ngôn từ nghệ thuật. Hai nỗi “ tư hương ” của hai thi nhân, hai thời đại có
khoảng cách về chất và lượng rất rõ. Hoặc ai biết tự bao giờ, ngôn từ Việt lại
có thể dung nạp được kiểu tư duy “Đã nghe
rét mướt luồn trong gió ”, hoặc “ Hơn
một loài hoa đã rụng cành ” của Xuân Diệu. “Hơn một lần chàng đã gởi cho trăng / Nỗi hiu quạnh của hồn buồn không
cớ” của Huy Cận. Cái cấu trúc văn
phạm Pháp: Plus... que đã vào ngôn từ
Việt một cách quí phái và đài các làm sao. Những tiêu đề như “Đây thôn Vĩ Dạ”
của Hàn Mặc Tử, “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu có gì liên quan đến Voici, C’est... trong tiếng Pháp không?
Dĩ nhiên là có. Hoặc “Yêu là chết trong
lòng một ít ” có liên quan gì với kiểu “Partir!
C’est la mort un peu... ” của thơ Pháp? Câu trả lời là có. Nhưng cái quan
trọng là mượn, vay, nhưng đã thế, thay bằng cảm quan Việt, ngữ điệu
Việt và ngôn từ Việt. Đấy là điểm làm nên giá trị của các nhà Thơ mới...
Các nhà Thơ mới chỉ có
thể cởi bỏ cái khuôn mẫu gò bó của Đường luật, còn phần hồn cốt Đường thi cứ
phảng phất mãi trong Thơ mới: “Hồn cũ
Thịnh Đường muôn nẻo sáng / Ta ghì hư ảnh chút mà thôi” (Vũ Hoàng Chương).
Mặt khác, thơ tượng trưng Pháp cũng có những nét gần gũi với thơ Đường về tính
hàm súc, gợi cảm, kín đáo, thâm trầm và chuộng nhạc tính. Chỉ có khác ở chỗ:
“Thơ Đường chưa đi sâu vào cái tôi, chưa đi sâu vào thế giới cảm giác như Thơ
mới”(6). Cho nên Thơ mới dung hợp được cả thơ lãng mạn - tượng trưng
của phương Tây lẫn phương Đông như nhận định của giáo sư Phan Cự Đệ trong Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945: “Thơ lãng mạn Việt
Nam không những chỉ chịu ảnh hưởng thơ ca lãng mạn và tượng trưng Pháp, mà còn
tiếp thu truyền thống thơ ca Trung Quốc” (7).
Tiếp nhận thi ca nước
ngoài, các nhà Thơ mới có lối diễn đạt thơ phù hợp với điệu tâm hồn dân tộc.
Các thể loại thơ ca dân tộc quen thuộc (lục bát, hát nói, ca dao, vè... ) được
họ vận dụng, khai thác và nâng lên một trình độ nghệ thuật mới. Ngoài ra, các
nhà Thơ mới còn biết cách học tập và kế thừa truyền thống thơ Nôm dân tộc của
những thế kỷ trước một cách sáng tạo, để
làm giàu thêm cho Thơ mới 1932 - 1945. “Các nhà Thơ mới đã thực hiện một bước
tổng hợp quan trọng giữa tinh hoa của văn hóa Đông Tây với truyền thống văn học
dân tộc, do đó đã đẩy thi ca Việt Nam tiến nhanh trên con đường hiện đại hóa.
Các nhà Thơ mới đã biết tiếp thu ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài để bồi bổ
thêm cho truyền thống cũ của dân tộc.”(8). Sự tổng hợp mà chúng tôi
muốn lưu ý ở đây là tổng hợp toàn diện, trên tất cả các cấp độ của hình thức và
nội dung.
Có thể nói rằng “Phong
trào Thơ mới là một cuộc đánh giá lại các thể thơ cũ, tiếp thu những cái tốt đẹp
của truyền thống cũ, đồng thời học tập một cách sáng tạo thơ ca nước ngoài,
nhất là Pháp” (9). Đối với thi ca truyền thống cũ, Thơ mới đã gạn
lọc và kế thừa lối thơ năm chữ, thơ bảy chữ, thơ lục bát và đặc biệt là lối thơ
tám chữ được Thơ mới tiếp biến từ hát nói, ca trù mà ra.
Hầu hết các nhà nghiên
cứu đều thừa nhận Thơ mới nằm trong văn mạch dân tộc, bởi lẽ: Thơ mới đã tích
hợp tinh hoa nghệ thuật của thơ Pháp, thơ Đường trên nền tảng thi ca truyền
thống dân tộc. Trong Thơ mới, như Hoài Thanh đã nhận xét, có ba dòng thơ: Dòng
Pháp, dòng Đường và dòng Việt, “Đó là ba dòng thơ đã đi song song trong mười năm
qua. Cố nhiên trong sự thực ba dòng ấy không có cách biệt rõ ràng như thế. Nếu
ta nghĩ đến những dòng sông thì đó là những dòng sông nước tràn bờ và luôn luôn
giao hoán với nhau” (10).
Trong Thơ mới 1932 -
1945 có yếu tố lãng mạn - tượng trưng của thi ca phương Tây thế kỷ XIX và lãng
mạn - tượng trưng phương Đông của truyền thống thơ Đường Trung Hoa cùng hòa
quyện với ca dao, dân ca và thơ ca “quốc âm”, thơ Trung đại Việt Nam
của những thế kỷ trước. Trong đó, “chính sự ảnh hưởng của phương Tây đã thúc đẩy
ý thức cá nhân lên một tầm cao mới, một chất lượng mới. Đó cũng là quá trình
tiếp biến văn hóa đạt nhiều thành tựu xuất sắc. Thuộc loại hình thơ ca lãng
mạn, Thơ mới coi cái tôi cá nhân như điểm tựa nhìn ra thế giới, trở thành một
nguyên tắc cắt nghĩa và lý giải thế giới”(11).
Thơ mới - sự tích hợp
nghệ thuật thật đa dạng, phong phú, nơi quy tụ nhiều tài thơ với những đỉnh thơ
chói lòa, những thi phẩm bất hủ, những tên tuổi vang bóng ngay từ điểm xuất
phát như: Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Huy Cận ... Thơ mới - cuộc tiếp
biến và tích hợp nghệ thuật kỳ diệu, độc đáo, sáng tạo vào bậc nhất trong tiến
trình thơ Việt Nam. Chính vì thế, Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam đã khẳng định: “Tôi
quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại
phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần
một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy
Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn
Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên, và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu” (12).
Thơ mới - sự bùng nổ của cái tôi cá nhân hiện đại, kéo theo sự bùng nổ của ngôn
từ nghệ thuật đã làm nên bước phát triển mới của thơ Việt Nam và mở ra thời kỳ hiện đại chủ nghĩa trong thơ Việt cho đến
ngày nay.
T.T.N
Chú thích:
(1) Phan Cự Đệ (1997), Văn học
lãng mạn Việt Nam
1930 - 1945, NXBGD, Hà Nội, tr.197.
(2)
Hoài
Thanh, Hoài Chân (tái bản 1993), Thi nhân
Việt Nam,
NXB Văn học, Hà Nội, tr.30.
(3) Hoài Thanh, Hoài Chân (tái
bản 1993), Thi nhân Việt Nam,
NXB Văn học, Hà Nội, tr.31.
(4) Phan Cự Đệ (1997), Văn học
lãng mạn Việt Nam
1930 - 1945, NXBGD, Hà Nội, tr.41.
(5) Trần Đình Sử, Nguyễn Hữu Sơn, Trần Nho Thìn...(1997),
Vấn đề con người cá nhân trong văn học cổ
Việt Nam,
NXB Văn học, Hà Nội, tr.200.
(6) Phan Cự Đệ (1997), Văn học
lãng mạn Việt Nam
1930 - 1945, NXBGD, Hà Nội, tr.205.
(7) Phan Cự Đệ (1997), Văn học
lãng mạn Việt Nam
1930 - 1945, NXBGD, Hà Nội, tr.202.
(8) Phan Cự Đệ (1997), Văn học
lãng mạn Việt Nam
1930 - 1945, NXBGD, Hà Nội, tr.215.
(9) Phan Cự Đệ (1997), Văn học
lãng mạn Việt Nam
1930 - 1945, NXBGD, Hà Nội, tr.144.
(10) Hoài Thanh, Hoài Chân (tái
bản 1993), Thi nhân Việt Nam,
NXB Văn học, Hà Nội, tr.35.
(11) Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn học, Hà Nội, tr.200.
(12) Hoài Thanh, Hoài Chân (tái
bản 1993), Thi nhân Việt Nam,
NXB Văn học, Hà Nội, tr.29.
Cam on anh HD da spost bai de cung ban van giao luu chia se, chuc HQN ngay cang phat trien da dang, phong phu hon nua... !
Trả lờiXóaChào anh Nhân
XóaBài viết của anh thể hiện kiến văn, khi đọc HD rất tâm đắc. Rất mong anh tiếp tục cộng tác với HQN, đồng thời góp ý để xây dựng trang viết này ngày càng hay hơn. Chúc anh vui, khỏe! Thân mến!