“ Văn chương là nghệ thuật ngôn từ”. Biết thế. Hầu hết
những người cầm bút đều biết thế. Song thật sự thấu đáo giá trị ngôn ngữ trong
thế giới nghệ thuật với những chức năng, sự tương quan, những giá trị hàm ẩn
…trong ngôn ngữ nghệ thuật để có những “ứng xử” quyết đoán hơn với con chữ thì
hình như đốt đuốc giữa ban ngày tìm kiếm chẳng được mấy người.
Hầu hết những người cầm bút đều xem tiêu
điểm của văn chương vẫn là những cuộc rong chơi chữ nghĩa, hoặc việc mổ xẻ, tìm
hiểu về các giá trị kia là công việc của
nhà lý luận phê bình. Thậm chí, trong nhiều tiểu luận của các cây bút đàn anh
đã chẳng từng khuyên “cứ nhảy xuống nước
và bơi đi…đừng sợ chết hụt”. Và lớp lớp đàn em cứ ùm xuống nước và bì bõm bơi.
Có người hì hục trong đại dương chữ nghĩa, có người quay lại giữa cuộc chơi và
có người …chết chìm tận đáy. Cứ thế, hết đời này đến đời khác chẳng bao giờ ta
có nổi một Cao Hành Kiện. Có lẽ bàn đến Nobel văn chương là đụng đến cái mặc cảm
tự tôn của gần một ngàn nhà văn Việt Nam đang giữ tấm thẻ như một thứ
giấy thông hành trong cuộc rong chơi
CUỘC RONG CHƠI VỀ PHÍA CÁI ĐƯỢC BIỂU ĐẠT
Chỉ riêng thế giới của tín hiệu ngôn ngữ giao tiếp đã
phân rõ những mối quan hệ phức tạp: giữa tín hiệu với tín hiệu, giữa tín hiệu
với thực tế và giữa tín hiệu với nhân vật giao tiếp. Chính thế nó hình thành ba
khái niệm: Cú học ,nghĩa học và dụng học. Các tín hiệu ngôn ngữ trong giao tiếp
chỉ nhằm chuyển tải thông tin đến người tiếp nhận. Nó đơn thuần mang giá trị
thông tin, giá trị ngữ nghĩa. Trong tiếp nhận văn chương thì khác, người đọc có
quyền đòi hỏi nhiều hơn. Không chỉ những giá trị ngữ nghĩa mà còn những giá trị
thẩm mĩ trong cấu trúc ngôn ngữ với những giá trị hàm ẩn, mối tương quan giữa
CÁI BIỂU ĐẠT và CÁI ĐƯỢC BIỂU ĐẠT, tầng tầng lớp lớp những biến thể, những giá
trị được mã hoá. Điều này tạo nên sự khác
biệt giữa báo chí và văn học, giữa văn bản thông tấn và văn bản nghệ thuật
Một
tín hiệu ngôn ngữ nói chung muốn trở thành tín hiệu ngôn ngữ thẩm mĩ thì chúng
buộc phải đứng trong “ hàng ngũ”các tín hiệu trong văn bản nghệ thuật. Nói cách
khác, muốn tạo nghĩa mới cho tín hiệu ngôn ngữ thẩm mĩ thì bản thân chúng phải
là các yếu tố ngôn ngữ đứng trong một tác phẩm văn học, cũng gắn bó qua lại với
nhau để cùng thực hiện nhiệm vụ chung, phải phù hợp với nhau, phải cùng giải thích cho nhau, cùng hổ
trợ nhau để cùng hướng tới các mục tiêu sau đây: Thứ nhất là đạt hiệu quả diễn
đạt hay nhất về phía người sáng tạo. Thứ hai là tạo nên sự cảm thụ tinh tế nhất
về phía người đọc, người nghiên cứu, người nghe. Thứ ba là xác lập hiệu lực
giao tiếp theo hướng hàm ẩn mang tính nghệ thuật từ phía người tiếp nhận. Thứ
tư là tạo nên sự hiểu nhau tốt nhất giữa tác giả và bạn đọc (1)
Cái cấu trúc kép của tín hiệu ngôn ngữ thẩm mĩ là gía
trị của CÁI BIỂU ĐẠT – cái hiển ngôn, cái hình thức và CÁI ĐƯỢC BIỂU ĐẠT – cái
hàm ngôn, cái nội dung, là sự tương tác, không thể tách rời của ngôn ngữ. Phối
hợp được cái cấu trúc kép ấy mới chính là nghệ thuật ngôn từ.
Ông
Bổng sang thăm. Ông nói: “Bà ấy cú xoay ngang xoay dọc trên giường như thế này
thì gay go lắm đấy”. Lại hỏi: “Chị ơi! Chị có nhận ra em không?” Mẹ tôi bảo: “Có”.
Lại hỏi: “Thế em là ai?”Mẹ tôi bảo: “ Là người”…(Tướng về hưu-Nguyễn Huy Thiệp)
Đoạn thoại trên khiến người đọc có thể dừng lại, tự hỏi: Trong cuộc đời
có ai gặp trường hợp tương tự thế không
nhỉ? Lời thoại ấy của người lú lẩn hay là thật sự minh triết, tỉnh táo. Nội hàm
của CÁI BIỂU ĐẠT cũng chính là cái hàm ngôn, cái nội dung của CÁI ĐƯỢC BIỂU
ĐẠT, nó không chỉ mang giá trị ngữ nghĩa, giá trị thông tin. Nó mang một thông
điệp – chi tiết trong cả cái thông điệp chung của toàn truyện
“Thế
là chị thương em nhất . Cả làng, cả họ gọi em là đồ chó. Vợ em gọi em là đồ đểu.
Thằng Tuân gọi em là đồ khốn nạn. Chỉ có chị gọi em là người”
Cái biến thể giữa lú lẫn và sáng suốt, giữa
minh triết và u mê như không còn ranh giới. Sự tương tác giữa CÁI BIỂU ĐẠT và
CÁI ĐƯỢC BIỂU ĐẠT là những hằng số biến thiên, vô cùng: Dù có đê tiện, khốn nạn đến đâu thì đấy vẫn là CON NGƯỜI
Không thể nói
Nguyễn Trãi đã sống thanh thản dưới triều vua Lê Thái Tôn. Vị vua trẻ sớm nắm
quyền lực, lại ít kinh nghiệm sống, chỉ thích chiều nịnh hơn lời nói thẳng. Những
cột trụ nhà nước như bọn Lê Ngân, Lê Sát, Lê Văn Linh, Lê Hy… đều là những
chính khách xuất thân giang hồ, trị nước bằng mưu mẹo chứ không xuất phát từ đạo và luật . Thêm nữa bọn Lương Đăng và Hạ Đăng Đắc xúm lại phò nịnh, đẩy
lòng kiêu ngạo nên ngừời có thế lực lên tột bực. Giới quí tộc cung đình mới qua
được một đời còn hết sức quê mùa về lối sống, chưa có được đời sống tinh thần
vương giả, luôn nhầm lẫn giả thật, thực hư. Hơn nữa, ý thức xây dựng một tập
đoàn quyền lực dựa trên đạo nghĩa, kỷ cương không được củng cố. Cung đình giống như nơi tụ họp các anh hùng lục lâm,
chỗ nhóm lửa, chỗ thổi cơm, chỗ múa giáo, chế
được đặt ra do vui chuyện mà định. Trên các chân dung chính khách chỉ nhìn thấy
các cơ mặt bất động hoàn toàn, biểu thị tinh thần chính trị tù đọng tột cùng.
Số trẻ trung hơn, dễ thấy trên gương mặt họ những nét chối bỏ thẳng thừng học
vấn, chỉ chờ đón tiếp nhận cãm giác lạc thú …(Nguyễn Thị Lộ-Nguyễn Huy Thiệp )
Những đoạn trích cho thấy sự nén chặt
của con chữ, cái hình thức biểu đạt được chưng cất, được mã hoá có sức chứa của
một nguyên tử. Cái nội dung, cái hàm ngôn không chỉ là hiện thực, không gian, thời
gian của triều Lê và Nguyễn Trãi. Tất cả sự gợi mở tuỳ thuộc vào khả năng chuyển mã của người đọc. Toàn bộ các chức
năng thẩm mĩ, phối hợp tạo hiệu ứng, tương tác hai chiều. Trên các trang văn
hiện hữu ta không thể tìm thấy cái tương tác hai chiều ấy. Hầu như toàn bộ các
văn bản chỉ mang lại giá trị ngữ nghĩa, giá trị thông tin, kể lại một câu
chuyện nào đấy hoặc nhiều lắm là những
luận đề gán ghép như một chú giải mà câu chuyện là một minh hoạ.
CUỘC
RONG CHƠI VỀ PHÍA CÁI BIỂU ĐẠT
Nếu như hầu hết những tác phẩm văn xuôi là cuộc rong
chơi về phía CÁI ĐƯỢC BIỂU ĐẠT, thì ở thơ lại đi theo chiều ngược lai. Khuynh
hướng xé đôi CÁI BIỂU ĐẠT và CÁI ĐƯỢC BIỂU ĐẠT để đi về hai phía giống như hai
thế giới HƯƠNG và SẮC chẳng bao giờ sóng đôi. Có lần tôi nói đùa với vị khách
tham quan Hội Hoa Xuân Bình Dương, cái Hội Hoa Xuân đầu tiên mà tôi đứng chân
trong BCN. Vị khách nhón chân, hít thật sâu để nghe mùi hương của cây Cattleya thật đẹp. Tôi nói: “ Cô sẽ không
bao giờ nghe được mùi hương của nó, bởi qui luật bù trừ của tạo hoá chỉ cho
hương chứ không sắc, cho sắc thì không hương”. Chỉ đùa thôi chứ thật tôi không tin
hoàn toàn vào điều mình nói. Song với văn chương thì thế thật. Tình trạng của
các nhà thơ, nhà văn Việt Nam
cứ liều mình nhảy ùm xuống nước …tử vì đạo là một thực tế. Ít khi tìm thấy trên
trang thơ cái bình dị, mộc mạc, chân chất như Nguyễn Thế Hoàng Linh
Giá mà được chết đi một lúc
Chắc bình yên hơn một giấc ngủ dài
Giá mà xuống địa ngục thì càng tốt
Lên thiên đàng sợ chẳng gặp ai
Giá mà được
chết đi một lúc
Để thử xem
người ta khóc hay cười
Và xem thử
mình sẽ cười hay khóc
Làm ma có
sướng hơn làm người
Giá mà được chết đi một lúc
Nằm im nghe cuộc sống nhỏ tuôn trào
Nếu người ta ném ngay vào nhà xác
Cứ thế mà chết cóng cũng chẳng sao
(Giá mà được
chết đi một lúc-Nguyễn Thế Hoàng Linh )
Ở Nguyễn Thế Hoàng Linh, CÁI BIỂU ĐẠT
có vẻ như chỉ cần đủ để chuyển tải giá trị ngữ nghĩa, giá trị thông tin, song
cái giá trị tìm ẩn không chỉ dừng ở chức năng giao tiếp, mà người đọc có thể
chuyển mã, tuỳ thuộc vào năng lực tiếp
nhận, sự chiêm nghiệm SỐNG và CHẾT, sự phân thân, sự thấu hiểu cái thế giới đầy
mặc cảm giai cấp. Phần nhiều các nhà thơ rong chơi trong lớp vỏ hình thức với
những con chữ lấp lánh, nhiều màu sắc rực rỡ. Thơ giống như thứ hàng trang sức,
thiếu sự chiêm nghiệm.
Có thể diễn đạt hai hướng đi của văn xuôi
và thơ. Đó là: Nếu như văn xuôi cố thực hiện cái nhiệm vụ nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh,
cố chọn góc độ, ánh sáng, kể cả kỹ xảo photoshop thì nhà thơ đang làm nhiệm vụ
của hội họa siêu thực với đường nét, màu sắc lập dị, kỳ quái. Tất cả đều quên
đi một điều đơn giản “ Văn chưong là nghệ thuật ngôn từ”.
K.N
(1)Tín
hiệu thẩm mỹ trong ngôn ngữ văn học –TS
Mai Thị Kiều Phượng –NXB Khoa Học Xã Hội 2008.
Cảm ơn tác giả đã giới thiệu cho người đọc cảm nhận được một góc độ của văn chương.
Trả lờiXóa