(…) Người ta đã nói nhiều về tài thơ Xuân
Diệu. Người ta cũng đã nói nhiều về tài bình thơ của ông. Nhưng có một phương
diện khác ít được nhắc đến, song vẫn lồ lộ trên mỗi trang viết của ông, đó là
tài “phê” thơ.
“Phê” thơ thì có gì
mà tài? Và có gì để đáng nói không? Người xưa nói người khen ta đúng là bạn ta,
còn kẻ chê ta đúng là thầy ta. Tôi cứ nghĩ nếu chỉ thấy tài thơ hay tài phê
bình thơ của Xuân Diệu cũng đã nói được cái cốt cách, thần thái của ông rồi.
Nhưng không thấy được tài “phê” thơ của ông thì hình như ta đã bỏ qua một phía
khác tài năng của ông.
Xuân Diệu bình thơ
rất hay, rất tinh tế. Có những câu thơ, bài thơ qua lời bình của ông như có
lửa, có điện. Đoạn Tú Bà mắng Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Xuân Diệu
hạ mấy lời bình thật thấm thía: “Tú Bà nói chưa đầy nửa phút mà bọt mép văng
mãi ngàn năm. Gớm cái con hổ cái. Nó nói như muốn xé xác người ta, như muốn xé
rách trang giấy Truyện Kiều”. Những lời bình như thế không hiếm trong các bài bình
thơ của Xuân Diệu.
Nhưng Xuân Diệu phê
thơ cũng hay không kém. Cái tinh tế để cảm nhận được những câu thơ hay, những
bài thơ hay những là cái tinh tế để ông phát hiện ra những câu thơ dở, những
bài thơ dở. Có những câu thơ, những bài thơ, người đọc bình thường cảm thấy
cũng “đọc được”, thì con mắt tinh đời của Xuân Diệu có thể chỉ ra chỗ chưa đạt
một cách chắc chắn.
Có nhà thơ nọ viết :
… Nón che chung trời
mưa lổ đổ
Đôi môi hương sấu
chín dịu chua.
Và đây là lời “phê”
của Xuân Diệu : “Trời lổ đổ mưa, che chung một nón, giúp cho hai cái đầu gần
nhau, cho nên “đôi môi hương sấu chín…” thế là nên thơ quá rồi! Chữ hương hợp
với sấu chín và cũng hợp cho đôi môi, nhưng thêm dịu chua vào thì hỏng toi! Sấu
chín vừa ngọt dịu vừa chua, như thế nó vẫn cứ ngọt và càng ngon. Nhưng hai
tiếng dịu chua chỉ dùng được cho sấu chín mà thôi, không thể dùng được cho đôi
môi, đôi môi mà chua, thì là người đang ốm mệt hoặc là… chưa súc miệng!… Trừ
phi là văn trào phúng, chứ trong văn trữ tình, nên tránh đừng để chữ môi gần bên
chữ chua, vì chua còn có nghĩa là chua ngoa, môi em ăn nói chua ngoa quá…”.
Xuân Diệu rất sành
trong việc cảm nhận thơ hay, mà cũng rất sành trong việc phát hiện ra thơ dở.
Một câu thơ lạc điệu, một ý thơ khập khiểng, một tứ thơ lỏng lẻo hay một từ
dùng không đúng chỗ đều được ông chỉ ra và bình luận khá thấu đáo.
Một lần nọ, trong một
bài thơ dự thi đăng trên báo Văn nghệ, miêu tả việc đưa điện về nông thôn, có
câu :
Tôi bước dưới những
hàng ống sứ
Rất trắng tròn như cổ
tay em…
Xuân Diệu bình luận:
“Những cái ống sứ trắng tròn như cổ tay em thì có xinh không? So sánh như vậy
có làm vinh dự cho thiếu nữ, có tôn cái đẹp của thiếu nữ lên không? Người con
gái nào mà lại thích cổ tay của mình đẹp như ống sứ mắc dây điện? Ống sứ trắng
và tròn nhưng cứng nhắc và trơ trẽn lắm!”
Trong một tập thơ
được Giải thưởng của Hội nhà văn, có bài kể chuyện hai người yêu nhau đi xem
Viện bảo tàng, có đoạn:
Em thấy chăng? Nghĩa
Cương
Núi xanh màu cổ kính
Gặp thạp đồng Đào
Trịnh
Vui hình người giao
hoan.
Xuân Diệu nhận xét
đấy là một đoạn thơ thiếu mất sự thanh nhã. Ông viết: “Tạo hình người giao hoan
được, thì nói chuyện ấy cũng được, không nên phong kiến theo Khổng Tử. Tuy
nhiên “em” ở đây là ở mức “già nhân ngãi, non vợ chồng”, có thể suồng sã một tý
cũng được. Nhưng nếu “em” ở đây là cô gái trắng trong mới đi với mình vài lần
đầu, mà lại nói với cô ấy “hình người giao hoan”, nhất là nói trong thơ thì có
còn trang nhã không ?”
Xuân Diệu không chỉ
tinh tế trong việc chỉ ra cái dở, cái chưa được của thơ, mà ông cũng rất tinh
tế, rất độc đáo trong cách chê. Giọng chê của ông có một chút hóm hỉnh, có một
chút đùa vui. Chính cái giọng hóm hỉnh đùa vui này đã làm cho việc phê thơ của
ông không nặng nề như ở nhiều bài phê bình khác. Người đọc thú vị mà tác giả bị
chê cũng chấp nhận được.
Chẳng hạn trong bài
thơ Đường cày mới thẳng của một tác giả nọ có đoạn :
Lúc nghỉ anh đứng
nhìn
Đường cày trông đã
đẹp
Em chỉ đôi chim chích
Trên cành thông ven
sông
Chim đang đứng rỉa
lông
Trông sao vui mắt lạ
Xuân Diệu hóm hỉnh
chỉ ra cái vô lý của ý thơ: “Theo tôi đọc, thì tác giả bài thơ này tưởng tượng
ra đấy thôi, chứ tác giả chưa dạy cho cô gái nào cày sất cả. Vì trong đời thực,
một người con gái có giáo dục, có ý tứ, có sự tế nhị, hơn nữa một cô gái quê,
muốn tỏ tình với người con trai, lại đi chỉ trỏ cho người con trai thấy đôi chim
kia đang “chim” nhau hay sao? Ai lại trơ trẽn, lộ liễu thế.” Suy bụng ta ra
bụng người”, hoặc giả anh con trai có lộ liễu thế chăng? Lộ liễu như vậy là
“liễu ngõ hoa tường”, phai mất đi cái thiêng liêng e ấp của tình yêu ban đầu”.
Cũng có khi cái hóm
hỉnh của ông là dẫn ra những bài thơ dở, buồn cười, không bình luận gì nhiều.
Chẳng hạn: “Tôi xin lỗi bạn đọc kể vào đây một sự thiếu ý tứ đến nỗi như là một
sự cố ý; bài “ca dao” dự thi:
Đêm nay phục kích
trên đồi
Lòng anh nhớ tới
người anh thương
Giặc còn chếch cháng
bên đường
Thương em để bụng,
anh giương súng chờ!
Xin miễn bình luận!”
Có người trách ông
trong khi viết, trong khi nói hay “cù” người đọc, người nghe cười. Ông chỉ tủm tỉm
đáp lại: “Ấy cũng phải khích động như thế cho người nghe, người đọc sôi nổi
lên, đỡ chán”. Điều này đã làm cho những bài viết có tính chất phê phán của ông
bao giờ cũng dí dỏm, đọc rất thú vị.
Xuân Diệu hóm hỉnh,
đùa vui cho việc phê thơ không nặng nề kinh viện, chứ không phải là ông dễ dãi
với việc phê thơ. Phải nói rằng trong lĩnh vực này ông là người quyết liệt và
sòng phẳng. Nếu là thơ dở, thì dù là của ai, dù được tặng giải thưởng gì đi
nữa, ông cũng phê. Ông là người đã giới thiệu thơ của nhà thơ thần đồng Trần
Đăng Khoa với nước ngoài, với trong nước. Nhưng ông cũng là người phê tập “Khúc
hát của người anh hùng” của Trần Đăng Khoa một cách không nhân nhượng. Với ông,
khen ngợi hay phê phán là phải nói được bản chất đích thực của nó, chứ không phải
đúng một cách cầu an. Có lần ông tâm sự: “Trong sự khen chê tôi không chủ
trương một cách chung chung là “phải có chừng mực”; đó là một sự chiết trung
rất cầu an; tôi nghĩ rằng phải cố gắng nhận xét, cân nhắc xem tác phẩm nó có
thế nào, nó đến đâu, tất cả vấn đề của sự đánh giá là phải xác đáng. Chê phũ
phàng, chê vùi dập là không nên đối với nền văn học mới còn trẻ tuổi; mặt khác
nói khuyết điểm mà đúng huyệt và chí tình, còn làm cho một tác giả có bản lĩnh
khoái và cảm động hơn là một lời khen quá thặng lên như một cái áo rộng, thậm
chí một cái áo thụng, “tiếng khen như gió thoảng ngoài” (Bàn về chất lượng của thơ, 1977).
Có khi Xuân Diệu phê
rất nặng. Ông chê người này viết như thế “trơ trẽn lắm”, ông phê người kia
“viết thế e vô lễ”, thậm chí có khi ông chê là không biết làm thơ… Nhưng không
mấy ai nỡ giận ông, bởi vì đằng sau những lời phê đó là một tấm lòng nhân hậu,
một tấm lòng chí tình, hết mình với thơ, với đời. Xuân Diệu sống hồn nhiên,
mãnh liệt, mà khen chê cũng hồn nhiên, mãnh liệt, có sao nói vậy, không đưa
đẩy, làm xiếc bằng ngôn từ. Có lẽ điều đó đã làm cho ông đến được với mọi
người, dù có khi ông có phê phán họ.
Ở Xuân Diệu dù làm
thơ, viết văn hay viết phê bình văn học bao giờ cũng là nỗi “khát khao giao cảm
với đời” (Chữ dùng của Nguyễn Đăng Mạnh). Và kỳ lạ thay những lời thơ, những
lời bình của ông sống với bạn đọc đã đành, mà những lời phê bình của ông những
sống được với bạn đọc, thậm chí có khi còn được thêu dệt thành những giai thoại
văn chương đầy thú vị.
Xuân Diệu đã ra đi.
Nhưng những gì ông để lại vẫn sống, vẫn tiếp tực giao cảm với đời như nỗi khát
khao của ông hằng mong lúc còn sống.
Tháng 11 năm 1990
L.T.D
Nguồn: Kiến thức ngày nay số 50
năm 1991.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét