Cuối con đường phố rộng mang tên một
vị anh hùng có một xóm nhỏ nẵm lọt sâu trong con hẻm, đoạn đường dẫn vào xóm
gần hai mươi nóc nhà gồ ghề; một bên là dãy nhà tôn, một bên là chiếc ao sâu
diện tích khoảng một trăm mét vuông, nhưng kéo dài đến vùng ruộng thấp phiá
dưới - nhà chị Sáu Cô Đơn ở cuối đường tiếp giáp với mấy đám ruộng ấy.
Ngôi nhà xây tạm vách gạch chưa tô,
mái tôn gỉ sét của chị nằm kẹt gần dãy tre già làm bờ ngăn nước, cũng là ranh
giới cuối của con xóm mang cái tên ngộ nghĩnh “Xóm Kẹo”. ( Dễ hiểu là cái xóm nhỏ chen chúc mọc lên như cỏ dại
nầy gồm những gia đình chuyên làm kẹo cục, kẹo cà, kẹo kéo mang ra chợ bán từ
thời loạn lạc trước năm 75). Vị trí ngôi
nhà của chị Sáu Cô Đơn và cái tên “xóm Kẹo” – làm ngưởi ta dễ hiểu dễ nhớ địa
chỉ nhà chị và có thể phần nào nhận biết được cả cuộc đời lận đận có cái tên “cô
đơn” kèm theo vị thứ “sáu” của chồng chị trong con xóm nầy. Chị vừa trôi dạt phương xa về muộn sau năm 80,
may mắn còn chút đất cạnh bờ tre không ai ngó đến – chị là người sau cùng chen
chân chui rúc vào đây để có chỗ nương thân cùng đứa con gái nhỏ tám tuổi sau
cuộc tang thương. Chẳng biết ai đã nghĩ ra và đặt cho chị cái tên vừa lạ, vừa
rất thơ nầy từ ngày chị về nấn ná sống ở đây?
Không ai có thời gian để thắc mắc
gì đến cái tên mới và lai lịch của chị - và ngưởi trong xóm, từ nhỏ đến lớn
cũng đều gọi chị là “Sáu Cô Đơn” mỗi
lần gặp hay gọi để mua vài chiếc bánh rán hay bánh bò rất ngon của chị vào mỗi
sáng mỗi chiều chị mang thau bánh ráng và ôm kè kè thẩu bánh bò bắt đầu rời túp
nhà quạnh hiu xuống phố...
Chị Thảo năm nay khoảng 50 tuổi. Con
số 50 là có vẻ hơi nhiều so với vóc dáng nhỏ nhắn gầy thấp, tóc phi dê ngắn của
chị. Nỗi gian truân và sự lạc lõng của chị cũng khó có thể giúp người đối diện
đoán tuổi chính xác; nhưng điều dễ thấy biết nhất là chị như con sóc hay cười.
Mau mắn. Nhanh nhẹn. Cởi mở. Như con gà mái chăm chỉ. Lui cui. Cặm cụi. Từ mờ sáng
đến tối mịt. Tuy vậy - dù nhìn dáng vẻ lùi xùi hôm nay, nhưng người ta cũng có
thể liên tưởng đến thời trẻ, thời con gái của chị không sai lắm: Đó là một cô
nữ sinh xinh xắn, nhỏ nhắn, có đôi mắt gợi cảm và đôi môi liếng thoắng tươi
hồng. Có lẽ, như bao cô gái khác – Thảo cũng đã trải qua một thời bướm ong thơ
mộng nữ sinh?
Dường như lúc nào nhìn thấy chị,
đôi môi đó cũng luôn cười. Nụ cười luôn
nở nên đôi môi như được tô một làn son mỏng làm cho nó bớt
đi mầu tái xám, bớt đi sự lạnh lẽo. nhọc nhằn. Người lớn, người già gọi chị là “ Sáu cô đơn” – chị cười sẽ sàng, im
lặng. Trẻ nhỏ gọi chị “ Sáu cô đơn” –
chị cười lớn, thân tình: “Cháu có biết “cô đơn” là gì không?”.
Năm Thảo đang học lớp đệ tứ,
chuẩn bị thi lấy bằng trung học đệ nhất cấp, để xin thi vào trường Nữ hộ sinh
quốc gia ở Huế thì ba chị mất đột ngột trong chuyến về thăm quê bị kẹt giữa
cuộc giao tranh, không biết đã trúng phải những viên đạn của bên nào mà thân
thể nát bét? Dù là đạn của ai – chúng đều là những thứ sẵn sàng giết chết người
trong nháy mắt! Chúng đã xuyên qua người
cha Thảo nhiều đến nỗi không thể đếm được!
Chị nghỉ học giữa năm – thay cha
trông coi cửa hàng bán lẻ thuốc cao đơn hoàn tán để nuôi hai đứa em đang đi
học. Khi cậu em trai lớn thi hỏng tú tài một, tránh đi lính xa – chị đã bỏ ra
cả lượng vàng cho em được nhận vào trung dội “nghĩa quân ma” ở xã. Thảo nghĩ –
vàng còn kiếm được, chứ nếu em chị chẳng may như thằng Hợi, thằng Bê vừa chân
ướt chân ráo ra trận, đã tan xương nát thịt rồi thì biết tìm kiếm đâu ra? Lo
chuyện cho em vừa xong - chị giao cửa hàng cho cậu em lớn trông coi để nuôi đứa
em nhỏ. Thảo nghe lời dì Út khuyên, vào
Nha Trang học nghề uốn tóc ngay tiệm uốn tóc của dì ở đường Độc Lập…
Có lẽ thời gian học nghề với dì Út ở Nha
Trang mới chính là thời gian Thảo sống nhiều cho ước mơ và hy vọng của mình. Lúc tay nghề đã tương đối có thể về quê “làm
riêng” như dự định của chị với hai em – thì Tuyên đến!
Một sáng chủ nhật – từ quân
trường Đồng Đế, Tuyên đã ghé lại thăm “cậu mợ Út” như đã hứa. Gặp ngay Thảo ở
phòng làm nghề phía trước – Tuyên hỏi: “Cô ơi! Có mợ Út ở nhà không vậy?”
-
Ở đây chỉ có dì Út – không có “Mợ Út” nào cả! – Thảo liếc nhìn
Tuyên từ chiếc đầu húi ngắn, đến đôi chân đang mang đôi bodechaut nặng trịch -
đáp lạnh lùng!
-
Dì hay Mợ… gì cũng được cả mà! – Tuyên cười, cô em khó tánh nhỉ?
-
Trời ơi! Tôi làm em anh hồi nào?
-
Không lẽ làm chị?
-
Tôi chưa hề làm em ai – Thảo che bàn tay lên môi cười. - làm chị
hai đứa em trai ở nhà thì có!
Dì Út từ phòng sinh hoạt riêng của gia dình phía sau đi lên: “Tuyên đó
hả? Sao hôm nay cháu mới đến?”. Quay
nhìn Thảo – Dì cười: “Hai cháu cãi nhau gì vậy?”
- Cô bé nầy
đòi làm chị cháu! Tuyên đáp thay Thảo.
- Thảo nó nhỏ
hơn cháu một tuổi mà! – Dì Út nhìn Thảo, cháu gọi Tuyên bằng anh nhé!
- Dạ! -Thảo bẻn lẻn dán mắt vào chiếc đầu trùm
kín khăn của cô gái đang ngồi chờ Thảo giở ra để chải gội.
Tuyên theo mợ Út ra phía sau nhà –
Thảo quay lại, ngó theo, lòng còn ấm ức. Cô bạn đồng nghiệp từ góc phòng đang
trang điểm đầu tóc cho cô dâu, nói vọng lại: “Thảo ơi! Nhất gái hơn hai;
nhì trai hơn một nghe em!”.
Nghe lời kể lại của dì Út – Thảo vơi
dần đi nỗi ấm ức khó chịu trong lòng về Tuyên. Thế vào cái “ghét” thoáng qua
ban đầu bị Tuyên bắt nạt, là cái “thương” thấm dần trong từng đêm mơ tưởng. Đời
Tuyên khổ vậy – nhưng sao anh vẫn cứ thản nhiên cười, thản nhiên nói, thản
nhiên sống nhỉ? Trên gương mặt hình chữ
điền phúc hậu là đôi mắt biết cười. Là đôi môi luôn tươi tắn với cái nốt ruồi
nhỏ môi dưới. Là chiếc mũi tròn. cao – gợi cảm. Là vầng trán rộng thông minh độ
lượng. Hình bóng Tuyên cứ tự nhiên quay về trong đầu Thảo không thể kìm giữ,
hay lãng tránh. Tình yêu vẫn có riêng sự tồn tại không thể chối bỏ bên đời sống
của mọi người hay sao?. Nó vẫn thường lặng im – nhưng có thể bùng cháy dữ dội?
Trong bữa cơm chung buổi chiều –
hay lúc cùng ngồi ở phòng khách với dì Út – Thảo lân la tìm cớ hỏi chuyện về Tuyên.
Một hôm – dường như dì cũng đoán ra trong cái đầu ngây thơ đang vương vấn yêu thương
của Thảo – dì nhìn chậm lên mắt Thảo, cười: “Thảo, cháu đã yêu thằng Tuyên rồi
phải không?”.
Như bị châm lửa - Thảo dẫy nẩy: “Trời ơi! sao
dì lại nói vậy? Cháu có yêu thương gì đâu?”
-
Thôi! Dì lại cười, vỗ tay lên vai Thảo - đừng có dấu! Không yêu
thuơng thì “mắc mớ” gì chuyện riêng của người ta – cứ theo hỏi dì hoài vậy? Ai
dại gì mà tự “vạch áo cho người xem lưng”?
-
Dạ, cháu thấy…
-
Thấy thế nào?
-
Anh Tuyên cũng rất đáng thương, dì ạ! – Thảo thờ dài, cuộc đời mồ
côi cha mẹ của anh Tuyên làm cháu…
-
Thương hại?
-
Không hẳn vậy đâu dì!
-
Chứ sao?
-
Cháu cảm thấy – Thảo cười, nhìn dì dò xét – khó nói quá!
-
Thôi, được rồi! Dì cũng đã nghĩ không sai…
Được dì cảm thông – nhất là nhận làm
“chiếc cầu” cho cả hai được gần nhau, Thảo đã nhận lời mời của Tuyên cùng đi
thăm chơi Nha Trang một ngày trước khi Tuyên về Tuy Hòa thăm gia đình để lên trình
diện đơn vị ở Pleiku.
Tuyên mượn chiếc Honda 68 mới của
cậu Thái – chồng dì Út, chở Thảo đi loanh quanh các ngã phố biển Nha trang. Đã
vào sống ở đây gần nửa năm – nhưng với Thảo, đây mới thật là lần “thăm Nha Trang
đầu tiên”. Cũng khu chợ Đầm nhộn nhịp
quen thuộc, cũng bãi biển sóng biếc có lần đã cùng các bạn ngồi chơi cả buổi –
nhưng Thảo cảm thấy một niềm vui thật mới lạ, thật xao xuyến đang dâng tràn
trong lòng. Nó như những đợt sóng, tiếp nối - dạt dào, khiến Thảo như miên man
chìm đắm. Thảo nhìn thấy cảnh vật cung quanh mình dường như đều mới hơn, lạ hơn
và cũng tưới tắn hơn... Nha trang như được khoác lên bộ áo tinh khôi sung mãn
của một phố biển hiền hòa quyến rũ.
-
Em muốn đi thăm những nơi nào? - Giọng Tuyên ân cần.
-
Dạ, nơi nào tùy anh…Thảo đáp khẽ, như nỗi xúc động đang chẹn lấy
giọng nàng.
-
Sao lại tùy anh?
-
Vì được đi chơi với anh, em thấy nơi nào cũng đẹp…
Vậy là Tuyên đưa Thảo đi thăm hết
khu Hải Học Viện, tháp hải đăng, lầu Bảo Đại, đến khu bán đồ lưu niệm bằng vỏ
ốc và đồi mồi. Anh cầm tay Thảo dạo qua những gian hàng bán đồ lưu niệm, chọn
mua cho Thảo xâu chuỗi hạt trai, mấy vòng đeo tay, chiếc nhẫn bằng đồi mồi…Lúc
Tuyên quàng xâu chuỗi vào cổ và đeo vào ngón tay Thảo chiếc nhẫn – Thảo nín
thở. Nàng lặng im lắng nghe tim mình đập. Những nhịp đập rối loạn, dồn dập và
đứt quãng – khó kìm giữ.
Rời khu biển, Tuyên chạy thẳng lên
Xóm Bóng. Ghé Hòn Chồng, Bến Ghe. Và sau cùng, buổi trưa - cả hai leo lên Tháp
Bà trên ngọn đồi thoai thoải bên nầy cầu Hà Ra với lỉnh kỉnh thức ăn và nước
uống. Và, cũng chính tại ngôi chùa tháp linh thiêng nầy – Tuyên và Thảo đã ước
hẹn sẽ cùng nhau trọn đời chung sống…
Đám cưới của Thảo được tổ chức sau khi Tuyên
lên đơn vị trình diện được ba tháng, tại quê nhà Tuyên - dưới chân cụm núi Sầm.
Ngôi nhà của cha mẹ Tuyên để lại nằm ngay trên hương lộ từ thị xã lên Hòa Trị
Tây được giao cho người chị cả dọn về ở để bày hàng tạp hóa nhỏ kiếm sống thay
cho nghề làm bánh tráng ở quê chồng bên Hòa Trị Đông, từ ngày Tuyên bị đưa vào
Đồng Đế.
Bà con phía Thảo – ngoài vợ chồng dì
Út, có người em trai lớn, và người chú là thương binh đi xe đò Thuận Thành vào
Tuy Hòa từ chiều hôm trước. Trong lòng ai cũng nơm nớp lo, và lặng thầm cầu
nguyện cho Thảo. Buổi sáng, cùng hẹn gặp nhau ở ngôi nhà từ đường của Tuyên mà
người chị đang sống để làm lễ, sau đó
cùng tiếp bà con họ hàng và bạn bè Tuyên lai rai đến dự chia vui đến bốn giờ
chiều, là kết thúc. Đám cưới chỉ được tổ
chức một lần ở quê Tuyên, không có đưa và rước dâu. Đâu còn cảnh đưa rước dâu
bằng bò của thời thái bình mà ca dao Phú Yên đã ghi lại? (Tiếng đồn Hộ Tịnh giàu lâu/ Gã con Thông Lý – đưa dâu bằng bò!). Thảo bây giờ đã được bà con gọi là “vợ thằng Sáu Tuyên” (hay vợ “thằng
Sáu”) rồi, Thảo cũng không dám đòi hỏi gì hơn. Cuộc chiến như đang thảy dần tất
cả vào chiếc lỏ lửa khổng lồ - tình yêu thương cũng không hề ngoại lệ - phải
vội vàng và giới hạn từng ngày như cuộc sống rẫy đầy biến động, tang thương…
Vợ chồng Thảo tạm thuê phòng trọ ở
phòng ngủ Vĩnh Đông Á một tuần trước ngày Tuyên hết phép, để cùng nhau vào lại
Nha Trang. Thảo được Tuyên chở đi thăm cái thị xã nhỏ bé, hiền từ, nhưng rất
đáng yêu của quê anh. Dường như buổi chiều nào cả hai cũng đưa nhau xuống biển,
bởi phố chợ Tuy Hòa chỉ có bốn con đường lớn song song đi mươi lăm phút là hết!
Bãi cát trắng dài, vắng hoe, chỉ có tiếng
song, tiếng gió, tiếng vi vu của mấy hàng thông còn sót lại – là cõi riêng đang
rất cần cho Thảo và Tuyên bên nhau lúc nầy mà thôi. Trong cái im vắng gây lạnh của
bnổi chiều giữa thu nơi bãi cát trống, hai người ngồi tựa vào nhau, tận hưởng
cái thời khắc hiếm hoi của một ngày sắp tàn, của một tuần sắp hết. Truyền hơi
ấm và niềm hy vọng mong manh cho nhau bằng những nụ hôn bất chợt, thảng
thốt. Rồi mai đây – Tuyên lại phải đi xa– Thảo trở
về với bao lo toan, không có lời hẹn một ngày mai trở về chắc chắn!
-
Anh nói gì đi chứ? – Tiếng Thảo thốt lên.
-
Anh đang chờ em …Tuyên đáp.
-
Em không muốn nghĩ đến ngày mai…
-
Anh cũng vậy, rất sợ em ạ! – Tuyên chợt thở dài - Trước ngày cưới,
anh không nghĩ gì nhiều như lúc nầy – quay nhìn lên gương mặt xanh xao của Thảo
- Ước gì thời gian dừng lại mãi thế này, em nhỉ?
-
Nhưng – Thảo ngồi thẳng lên, nhìn Tuyên – có lúc nào anh nghĩ đến
con của chúng mình…
-
Nghĩ đến con? - Tuyên trầm ngâm giây lâu – sao lại không?
-
Nhưng rồi tất cả đều phải bị cuốn hút vào cơn lốc hung hãn của đời
sống như vậy mà anh? Tiếng Thảo lạc lõng trong cơn gió – nàng ôm chầm lấy Tuyên
hôn như sợ hình bóng nầy tan đi.
Họ ngồi bên nhau, ôm siết nhau, và
dường như thời gian của đêm có thể đem lại cho cả hai một niềm an ủi mơ hồ,
rộng lớn bên nỗi buồn không thể chối bỏ, ngày càng nặng nề… Như mọi hôm, khoảng
hơn 8 giờ, họ quay về quán ăn Mị Châu Thành trước khi trở lại phòng ngủ đóng kỹ
cửa phòng…
Mùa Hè năm 72, Thảo sinh đứa con
gái đầu lòng – Tuyên về thăm mẹ con Thảo được một tuần. đặt tên con là Hòa Bình
– Lê Thị Hoà Bình. Khi Hòa Bình giáp thôi nôi – Tuyên trốn đơn vị về thăm mẹ
con Thảo ba hôm khi chờ đợi quá lâu mà không nhận được tấm giấy phép đặc ân
hiếm hoi. Từ ngày ấy – mùa hè năm 73, Tuyên không còn dịp về thăm mẹ con Thảo
lần nào nữa cho đến giữa năm 75, được bạn bè báo tin Tuyên đã chết dọc đường
liên tỉnh lộ số 7 (sau nầy là quốc lộ 25) khi cùng đơn vị tháo chạy về Tuy Hòa.
Mẹ con Thảo được dì Út đùm bọc. Gởi con cho dì
Út, sáng sớm Thảo bươn bả xuống chợ Đầm
mua đi bán lại các loại rau củ quả từ
miệt ngoại thành chở đến. Buổi chiều – tối, Thảo ra đi với thúng hột vịt lộn từ
dọc phố cho đến bãi biển. Thảo muốn xin dì ôm con về quê kiếm việc làm ăn cho
ổn định – nhưng, ngôi nhà cũ ở phố hai người em đã bán. Chia nhau. Gom góp tiền
về dưới quê cất lại nhà để lo chuyện trồng trọt, chăn nuôi rồi – về lại thì mẹ
con nấn ná nơi đâu? Tin tức của cậu em
và bà con ở quê cho Thảo biết chuyện làm ăn ở đó – ngày càng thu hẹp lại rồi! Nghề
uốn tóc trang điểm làm đẹp của Thảo đâu còn ai thuê mướn gì nữa? Tất cả đều đổ
dồn vào cho cái ăn, cái mặc đã mệt đừ rồi còn thời gian và tiền bạc đâu mà ngồi
vắt chân cho ngưởi ta tô điểm?. Cậu em liên tục nhắc: “Dầu sao chị ở trong cái
thành phố ấy còn “sướng” hơn ở đây nhiều!”. Thảo không biết nghe theo lời ai –
bởi, đâu có ai tỉnh táo và hiểu biết để biết rõ ngày mai sẽ ra sao? Mọi sự đổi
thay cứ như chong chóng trước cơn gió dữ…
Trong một lần đi dạo bán hột
vịt dọc bãi biển trống vắng – Thảo gặp người khách lạ nói giọng miền ngoài đang
ngồi một mình, trông buồn buồn! Thảo ghé lại mời. Anh ta nhìn Thảo giây lâu –
thản nhiên hỏi: “Em còn đi học không?”
-
Dạ, không!
-
Vậy ở nhà làm gì?
-
Kiếm sống…
-
Cha mẹ em đâu?
-
Chết hết rồi!
-
Còn bà con. anh chị em?
-
Ở xa lắm!
-
Xa là ở đâu?
-
Nhơn Hưng…
-
Em chưa có gia đình chứ?
-
Có rồi!
-
Có con…
-
Một đứa lên ba tuổi…
-
Còn anh ấy?
-
Chết!
-
Sao chết trẻ vậy?
-
Ai biết!? Chiến tranh mà…
-
Em hiện đang ở đâu?
-
Ở nhờ nhà bà dì…
-
Thỉnh thoảng anh ghé thăm mẹ con em được không?
-
Thưa, không được!
Thảo đứng dậy – chớm bước đi..
-
Em gói cho anh 5 quả nhé! Người khách móc chiếc ví ở túi sau lấy tiền – về nhà trọ anh mới ăn…
-
Dạ…
Thảo đã luôn từ chối gặp lại hay lời hẹn hò
xa gần tha thiết với nhiều “khách lạ” như vậy, sau hai lần bị lừa gạt. Lần đầu,
vì tiền. Lần sau, vì tình! Trước mắt Thảo lúc nầy, cái xấu – cái bất thiện – như
những đợt sóng biển hết đợt nầy đến đợt khác dồn dập xô vào bờ không ngớt.
Chúng làm Thảo đôi lúc cảm thấy choáng váng, như một nỗi thất vọng – cùng lúc
là một nỗi cô đơn rộng lớn bao trùm lấy cuộc đời mình, không thể cứu vãn…
Tháng
10 năm 2000
MANG
VIÊN LONG
Chúc anh Mang Viên Long thật nhiều sức khỏe.Mong sao cuộc đời mới có thêm niềm tin để "chị Sáu cô đơn" vui với tuổi già.Cuộc đời là "vô thường"...!
Trả lờiXóaChào Thụ Nhân Giang! Cám ơn NG đã đọc & có lời "chúc" lành cho "chị Sáu"! Tôi tin - Xuân đến, chị Sáu sẽ đỡ cảm thấy cô đơn hơn xưa! Nhân dịp Tết sắp đến, chú NG & gia đình mọi điều An Lành & Hạnh Phúc nhé! MVL
Trả lờiXóa