VUA QUANG TRUNG ĐẠI PHÁ
QUÂN THANH
Ðược tin quân Thanh sang
chiếm đóng Thăng Long, Bắc Bình Vương lập tức hội các tướng đến bàn việc dẹp
giặc. Các tướng xin Vương trước nên chính vị hiệu để ràng buộc lòng người Nam
Bắc rồi sau sẽ khởi binh.
Theo lời, Vương sai đắp
đàn ở Bàn Sơn (gần núi Ngự Bình). Ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (1788), làm lễ
cáo Trời Ðất, lên ngôi Hoàng Ðế, đặt niên hiệu là Quang Trung. Ngay hôm đăng
quang, Vua Quang Trung tự thống lĩnh thủy bộ đại binh, đốc suất tướng sĩ ở tế
đàn, kéo rốc ra Bắc. Ði đầu là một lá cờ vuông to lớn, nền đỏ thắm giữa thêu
mặt trời vàng rực rỡ, tượng trưng cho hiệu Quang Trung. Ðể quân sĩ đi cho chóng
và khỏi mệt, nhà vua cấp cho ba người một cáng tre, hai người khiêng một, luân
phiên nhau đi gấp ngày đêm ra Nghệ An.
Ðến nơi là ngày 29 tháng
11 Nhà vua mời La Sơn Phu Tử đến vấn kế. La Sơn Phu Tử tên là Nguyễn Thiếp,
người làng Mật Thôn, xã Nguyệt Ao, huyện La Sơn, trấn Nghệ An. Sinh năm Quý Mão
(1723). Ðậu Giải Nguyên năm Quý Hợi (1743). Vâng lời mẹ và thầy là Nguyễn
Nghiêm, Phu Tử ra làm huấn đạo ở Anh Ðô. Ðược ít lâu từ chức, về ở ẩn tại núi
Thiên Nhậm, tự hiệu là Lạp Phong xử sĩ. Phu Tử là người học rộng, đạo cao, lừng
danh khắp Nam Bắc. Kỳ ra Bắc lần đầu tiên để diệt Trịnh, đến Nghệ An, Nguyễn
Huệ viết thư mời ba lần, lời lẽ khiêm tốn xin cụ làm quân sư. Cụ một mực từ
chối. Kỳ thứ hai khi ra dẹp Võ Văn Nhậm, Nguyễn Huệ lại cho mời cụ đến hội
kiến. Bị sứ giả thôi thúc, bất đắc dĩ cụ ra gặp Nguyễn Huệ ở núi Nghĩa Liệt.
Huệ có ý bất bình nói: -
Nghe tiếng Tiên Sinh, mong được gặp mặt. Sao Tiên Sinh lại có ý thoái thác? Hay
là tiên sinh coi Huệ này không phải là anh hùng? Cụ đáp: - Trịnh thị tiếm lộng
đã 200 năm, Tướng quân nhất cử mà bài diệt được, thổ địa đều giao lại cho Vua
Lê. Công đức như thế, ai lại không cho Tướng quân là anh hùng. Nhưng nếu Tướng
quân nhân tai nạn của người mà làm lợi cho mình, ấy là dối lấy nghĩa trước,
thâu lấy lợi sau, thì đó là gian hùng. Huệ cung kính nói: - Người đời gọi Tiên
Sinh là Thiên Hạ Sĩ thật không sai. Huệ nài nỉ xin cụ ra giúp. Cụ lấy cớ tuổi
già sức yếu xin được ở yên nơi sơn lâm.
Kỳ này được giấy mời, cụ
đến ngay và nói: - Quân Thanh ở xa mới tới không biết tình hình quân ta mạnh
yếu thế nào, địa thế nước ta hiểm trở ra sao, không biết nên đánh hay nên giữ.
Chúa công ra đây nên đánh gấp thì không quá mười ngày nhất định tiêu diệt được
địch. Vua Quang Trung mừng rỡ: - Thật hợp ý ta!
Nhà vua đóng quân ở Nghệ
An để tuyển mộ thêm binh, trữ thêm lương thực. Sau mươi hôm quân mới cũ tính
hơn 10 vạn, trên 200 thớt voi và 5.000 con ngựa. Quân sĩ đều mặc áo cặp nẹp đỏ,
đội mũ ngù kết tua đỏ. Còn lương thì gạo xay bột đúc thành bánh tráng, đồ ăn
thì xẻ bò làm thịt thưng. Tân binh đều được tập luyện hàng ngày. Nhà vua cỡi
voi đi xem tập luyện và ban lời phủ dụ mọi người. Một hôm nhà vua trông thấy
trong đám tân binh một tráng sĩ, mình mặc áo trắng, tay cầm kích, lưng đeo
cung, biểu diễn tài nghệ trông vừa đẹp vừa hùng. Nhà vua rất lấy làm lạ, cho
người gọi đến. Tráng sĩ vừa đến gần, nhà vua liền nhảy xuống voi, chạy lại cầm
tay gọi: - Cố nhân! Ai nấy đều ngạc nhiên, hỏi nhau: - Ai vậy? Ðó là Ðặng Văn
Long.
Ðặng Văn Long tự là Tử
Văn, người làng Vân Hội huyện Tuy Viễn (Tuy Phước), phủ Quy Nhơn. Lúc nhỏ học
võ, tinh thông về môn cương quyền (quyền cứng mạnh), sau theo Trương Văn Hiến
học Miên quyền (quyền mềm dẻo) ngót 5 năm mới thành tài. Người trong võ lâm
thấy Ðặng gồm cả hai môn ngạnh công và nhuyễn công không ai địch nổi, nên tôn
xưng là Ðặng vô địch. Ðặng lại có sức mạnh vô cùng. Nằm ngửa dưới đất, dùng hai
cánh tay đỡ bánh một cỗ xe chở nặng. Người Quy Nhơn gọi là Người tay sắt (Ðặng
Thiết Tý). Nơi quê hương không có đối thủ. Ðặng đi khắp đó đây để tiêu dao ngày
tháng. Nghe tin Vua Quang Trung đi đánh quân Thanh, Ðặng bèn đến nhập ngũ. Và
để được dễ dàng, Ðặng bèn bày ra trò mặc áo trắng diễn võ trong khi tất cả quân
sĩ đều mặc áo đỏ. Gặp được bạn cũ, Vua Quang Trung hết sức mừng, liền phong cho
Ðặng chức Ðại Ðô Ðốc cùng mình đi định Bắc.
Sau khi chuẩn bị đầy đủ,
nhà vua hạ lệnh trẩy quân. Ngày 20 tháng chạp (15.1.1789), đại binh tới Tam
Ðiệp. Ngô Văn Sở, Ngô Thời Nhiệm, Phan Văn Lân ra chịu tội. Nhà vua cười: - Ta
biết đây là kế của Ngô Thị Lang. Lui quân để tránh thế giặc, trong khuyến khích
sĩ khí, ngoài phấn khích lòng kiêu ngạo của giặc. Kế dụ địch vào chỗ hiểm yếu
của ta, như thế là phải. Các khanh không có tội chi cả.
Lại nói: - Chúng nó sang
chuyến này là mua lấy cái chết đó thôi. Ta đã định mẹo cả rồi. Dẹp yên giặc chỉ
trong mươi ngày là xong. Nhưng giữ yên bờ cõi sau này ta phải nhờ Ngô Thị Lang.
Ðoạn lo chỉnh đốn quân ngũ, cắt xếp tướng tá, hoạch định đường hướng. Hai bận
ra Thăng Long, Vua Quang Trung đã nhìn thấy rõ địa hình địa thế của Bắc Hà và
khi dừng binh ở Nghệ An, nhà vua đã mật sai quân đi do thám để nắm vững tình
hình của địch. Nhà vua chia thân binh Thuận Quảng làm bốn dinh Tiền, Hậu, Tả,
Hữu, còn Tân binh Nghệ An thì làm Trung quân Trung quân do nhà vua trực tiếp
điều khiển. Tiền quân do Ðại Tư Mã Ngô Văn Sở và Nội Hầu Phan Văn Lân cai quản.
Hậu quân do Hô Hổ Hầu đốc chiến. Tả quân do Ðại Ðô Ðốc Nguyễn Văn Lộc và Ðại Ðô
Ðốc Nguyễn Văn Tuyết chỉ huy, kiêm cả bộ binh và thủy binh.
Tuyết giữ nhiệm vụ Kinh
Lược Hải Dương, ứng tiếp mặt đông. Lộc tiến đến Lạng Sơn, Phượng Nhã, giữ vùng
Yên Thế chận đường rút lui của địch. Hữu quân gồm mã quân và tượng quân, do Ðại
Ðô Ðốc Nguyễn Văn Bảo và Ðại Ðô Ðốc Ðặng Văn Long thống lãnh. Long đem mã quân
qua huyện Chương Ðức (Hà Ðông) để tiến đến làng Nhân Mục huyện Thanh Trì (Hà
Ðông). Bảo đem tượng binh qua vùng Sơn Minh (Ứng Hòa, Hà Ðông) để làm quân tiếp
ứng. Ðể trưởng dưỡng thêm lòng kiêu căng của địch, nhà vua sai Trần Danh Bình
cầm đầu sứ bộ tám người mang lễ vật và văn thư ra tha thiết xin quan Ðại Nguyên
Soái của Thiên Triều dừng quân để tra xét cho rõ vì sao Tây Sơn phải thay quyền
nhà Lê. Sứ bộ còn trả lại cho Tôn Sĩ Nghị 40 người Trung Hoa do tướng cướp Ðắc
Thiện Tống cầm đầu đã bị quân Tây Sơn bắt được. Tôn Sĩ Nghị chém Trần Danh
Bình, chém luôn cả Ðắc Thiện Tống và cầm tù phái đoàn sứ giả.
Mọi việc chuẩn bị xong,
nhà vua cho mở tiệc linh đình vào ngày 29 tháng Chạp để thiết đãi tướng sĩ.
Trong bữa tiệc nhà vua nói: - Bữa nay ta hãy ăn tết Nguyên Ðán trước. Sang xuân
ngày mồng 7, vào Thăng Long, sẽ mở tiệc ăn tết Khai Hạ. Lại nói: - Xuân sang,
một là ăn tết, hai là chịu chết. Tướng sĩ phải hết lòng cùng ta. Ai nấy đều hớn
hở vui mừng. Vui mừng hơn là Phan Văn Lân, vui mừng vì được gặp lại bạn học
ngày xưa: Ðặng Văn Long. Sau chuyện hàn huyên, Long hỏi thăm tin tức thầy học
Trương Văn Hiến. Lân nói: Thầy ra giúp Vua Thái Ðức một thời gian, rồi lui về
An Thái dưỡng lão. Từ ấy việc binh bận rộn, tôi không đi thăm được mà cũng
không được tin tức của thầy. Không biết có còn khỏe mạnh. Ơn xưa nghĩ lại lắm
lúc thật buồn.
Long nói: - Hơn mười năm
nay tôi mải miết giang hồ, cũng không lo tròn nghĩa sư đệ. Nhưng chuyến này nếu
đánh đuổi được giặc xâm lăng, thì chắc thầy cũng mừng rằng công dạy dỗ không
đến nỗi uổng.
Sáng hôm sau, 30 tháng
chạp, nhà vua truyền lệnh xuất quân. Vua nói: - Ta đến mà địch không biết, là
địch ngủ ta thức. Ta đánh mà địch không đề phòng, là ta chém kẻ tay không. Ta
nhất định thắng. Tiếng hoan hô vang trời, khí thế mạnh chuyển núi.
Quân Tây Sơn đến đâu
cũng được dân địa phương hoan nghênh đến đó. Nơi mổ heo bò thết đãi, nơi đem
bánh chưng bánh tét ra dâng. Hết bị kiêu binh của chúa Trịnh lộng hành gieo tai
họa lên đầu, đến bị Lê Chiêu Thống rước ngoại bang về dày xéo đất nước, nhân
dân Bắc Hà coi quân Phú Xuân như những đoàn hiệp sĩ cứu khốn phò nguy nên nhiệt
tình ủng hộ. Chưa hết ngày 30, nghĩa quân đã qua khỏi sông Giản Thủy ở Ninh
Bình, Hoàng Phùng Nghĩa, cựu thần nhà Lê do Tôn Sĩ Nghị sai đóng quân giữ Sơn
Nam, nghe đại binh kéo tới, chưa giáp trận đã bỏ chạy về Hà Nam. Vua Quang
Trung cho quân đuổi theo đến Phú Xuyên (Hà Ðông) thì bắt trọn cả tướng lẫn
quân. Bọn quân xích hầu của giặc cũng bị giết không còn một mống. Nhờ vậy mà
mối liên lạc giữa quân địch bị cắt đứt hẳn. Các đồn đóng ở phía ngoài không hay
biết chi cả. Nghĩa quân lặng lẽ kéo ra.
Mồng 3 tháng giêng năm
Kỷ Dậu (1789) lúc nửa đêm nghĩa quân vây đồn Hà Hồi. Quân Thanh đang ngủ, nghe
tiếng reo hò, tiếng trống trận vang rền như sấm ngoài chiến lũy, khiếp sợ,
không còn gan chống cự, vội vã kéo cờ hàng. Nghĩa binh lấy trọn quân lương và khí
giới. Qua đêm mồng 5, vừa cuối canh tư, nhà vua sai dồn tất cả lương thực vào
một chỗ rồi cho đốt sạch, và bảo tướng sĩ: - Hễ thắng giặc thì được no, thua
giặc thì chết đói. Lại lấy mấy thước khăn vàng quấn vào cổ và thề: - Nếu không
thắng được giặc thì chết với khăn này chớ nhất định không lui. Ðoạn xắn tay áo,
xách Ô Long đao nhảy lên mình voi, thúc quân tiến đánh đồn Ngọc Hồi. Voi trận
đi trước, quân lính theo sau đi như gió cuốn. Tướng Mãn Thanh hay tin, kéo kỵ
binh ra chận đánh, nhưng vừa trông thấy voi, ngựa sợ cuống, hí lên những tiếng
kinh hoàng, rồi chạy tán loạn. Quân Thanh bị rối hàng ngũ, không dám giao
chiến, phải rút lui vào giữ đồn. Ðồn quá kiên cố. Mặt ngoài lũy đều cắm chông
sắt và đặt phục lôi. Trong đồn lại bắn súng ra như mưa xối. Vua Quang Trung
truyền lấy 60 tấm ván dày, cứ ba tấm ghép vào thành một phên ván, ngoài phủ rơm
trộn với đất ướt. Rồi cứ mười người, lưng đeo đoản đao, khiêng một tấm phên ván
đi trước, tiếp theo hai mươi người cầm vũ khí, tiến theo thế trận chữ nhất. Nhà
vua cỡi voi theo sau đốc suất. Ðạn bắn rào rào. Quân ta không hề lui một bước,
vượt chông sắt, phá tan cửa lũy, tràn vào đồn. Quân địch không còn dùng súng
được nữa. Quân ta quăng ván, đánh xáp lá cà, nhanh như chớp, mạnh như bão, giết
quân địch như thái rau. Quân địch không cự nổi, bỏ chạy, lớp dày đạp lên nhau,
lớp chạm phải địa lôi, lớp chết lớp bị thương, còn bao nhiêu bị bắt sống. Tướng
Thanh là Ðề Ðốc Hứa Thế Hanh, Tiên phong Trương Triều Long và Tả Dực Thượng Duy
Thăng đều tử trận.
Ðồn Ngọc Hồi giữ vị trí quan
trọng nhất trong hệ thống phòng ngự của địch. Lực lượng có trên 3 vạn quân tinh
nhuệ. Ðồn bị tiêu diệt, quân tử trận và bị bắt hơn hai phần. Còn chừng một phần
sống sót kéo nhau chạy ra ngã Thăng Long, chẳng ngờ đến gần Văn Ðiển thì bị
quân Tây Sơn bố trí sẵn, chận đánh. Quân địch phải thối lui, chạy qua cầu Vinh
sang vùng Ðầm Mực. Ðầm Mực là một vùng đầm lầy rộng lớn thuộc huyện Thanh Trì.
Ðại Ðô Ðốc Nguyễn Văn Bảo từ Sơn Minh đem tượng binh đến Ðại Áng. Khi có tin
quân địch từ Ngọc Hồi chạy lên thì đem voi ra bao vây. Quân địch lớp chôn thây
trong bùn lầy, lớp bị voi chà, không còn một tên sống sót. Lực lượng Ngọc Hồi
bị tiêu diệt toàn bộ Trong khi Ngọc Hồi bị tiêu diệt thì đồn Khương Thượng cũng
bị tiêu diệt luôn.
Khương Thượng nằm phía
tây nam thành Thăng Long. Ðồn bị quân Ðại Ðô Ðốc Long tiêu diệt. Ðại Ðô Ðốc
Ðặng Văn Ðông có viên phó tướng là Ðặng Tiến Ðông, trí dũng hơn người, trước
kia làm quan cùng chúa Trịnh, sau quy thuận nhà Tây Sơn, Ðặng Tiến Long quê ở
Lương Xá gần Thăng Long, am hiểu địa hình và đường lối trong khắp vùng Thăng
Long và lân cận, hướng dẫn quân đi đường tắt Ðại Ðô Ðốc Ðặng Văn Long từ huyện
Chương Ðức đến Thanh Trì, trước hết chiếm đồn Yên Quyết và Nhân Mục, nằm phía
tây bắc đồn Khương Thượng. Hai đồn này là hai đồn nhỏ làm tiền đồn cho Khương
Thượng. Hai đồn bị hạ một cách nhanh chóng và im lặng. Quân Ðô Ðốc Long kéo vây
đồn Khương Thượng từ lúc chưa tinh sương. Trong đồn không hay biết. Quân Ðô Ðốc
Long được nhân dân ủng hộ, dùng rơm khô bện thành con cúi, tẩm dầu, chực lửa. Rồi
một tiếng hô, muôn nghìn tiếng ứng, đồng thời lửa bật cháy. Bốn mặt đều có ánh
lửa hừng hực và tiếng hô hét vang trời. Quân trong đồn khủng khiếp, không còn
sức chống cự. Tướng chỉ huy là Ðề Ðốc Sầm Nghi Ðống chưa kịp đối phó thì quân
của Ðô Ðốc Long đã phá đồn tràn vào như nước vỡ đê.
Ðống khiếp sợ, trốn ra
Hoa Sơn tức gò Ðống Ða thắt cổ tự tử. Binh sĩ trong đồn bị giết quá nửa. Một
nửa còn sống sót lớp chạy ra hướng Bắc, lớp theo sông Tô Lịch chạy vào Nam. Chạy đến
Ðầm Mực bị quân Ðô Ðốc Bảo tiêu diệt hết Tại bản doanh, Tôn Sĩ Nghị đương theo
dõi mặt trận phía Nam, bỗng được tin đồn Ngọc Hồi rồi đồn Khương Thượng bị tiêu
diệt, và binh Vua Quang Trung đương kéo đến kinh thành. Còn đương lúng túng
chưa biết liệu thế nào, thì binh Ðô Ðốc Long từ Khương Thượng đã kéo vào Thăng
Long, sát khí ngùn ngụt. Nghị sợ quá không kịp mặc áo giáp, không kịp thắng yên
ngựa, hớt hải cùng toán kỵ binh hầu cận bỏ cung Tây Long, vượt cầu phao chạy
qua sông Nhị. Tướng sĩ thấy chủ tướng bỏ chạy, rùng rùng chạy theo, lấn nhau qua
cầu phao. Cầu không chịu nổi sức nặng bị đứt, ném tung hàng vạn quân địch xuống
sông. Tôn Sĩ Nghị cùng đám tàn quân nhắm ải Nam Quan mà chạy. Nhưng chạy đến
đâu thì cũng bị quân của Ðô Ðốc Lộc đánh giết. Tôn Sĩ Nghị phải vứt bỏ tất cả
sắc thư, ấn tín để lo chạy thoát thân. Chạy bảy ngày đêm mới đến trấn Nam Quan,
đói cơm khát nước. Vua Chiêu Thống cũng chạy theo Tôn Sĩ Nghị. Ðạo quân Thanh
đóng ở Hải Dương cũng bị Ðô Ðốc Tuyết đánh bại. Riêng đạo quân Thanh đóng ở Sơn
Tây, tuy không bị tấn công, nhưng cũng hoảng sợ, rút chạy về nước. Quân Mãn
Thanh bị quét sạch. Bắc Hà hoàn toàn được giải phóng.
Chiều mồng 5 tháng giêng
năm Kỷ Dậu (30.1.1789), Vua Quang Trung kéo quân vào thành Thăng Long trong
không khí tưng bừng. Chiếc chiến bào của nhà vua đỏ thắm đã bị thuốc súng nhuộm
thành màu đen. Nhà vua vào thành Thăng Long trước kỳ hẹn hai ngày. Trăm họ chật
đường nghênh tiếp. Tiếng reo hò của nhân dân và của binh sĩ vang dội một góc
trời. Theo đúng lời hẹn, Vua Quang Trung cho tướng sĩ ăn tết một lần nữa. Nhân dân
trong thành và ngoài thành cũng đua nhau mở tiệc vui, tưng bừng nhộn nhịp. Và
trên kỳ đài thành Thăng Long, ngọn cờ đỏ mặt trời vàng bay phấp phới.
(Nguồn: Báo Bình Định)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét