Ảnh: Trần Việt Đức
Những ngày tháng tư, giữa nóng bức và ngột ngạt, tôi bỗng nhớ da diết một Sài Gòn xa lắc xa lơ thời tuổi trẻ, một chân trời mới ngỡ ngàng giữa những cơn đói và những giấc mộng…
Tốt nghiệp lớp 10 ở Hà Nội, tôi theo cha vào TP.HCM năm 1976. Khi ấy chưa có tàu hoả, cha con tôi đã trải qua một “chuyến đi bão táp” kéo dài cả tuần lễ. Thành phố đón tôi bằng những cơn mưa chiều tháng sáu. Những cơn mưa xối xả như bị ức chế lâu ngày, cứ giội xuống mái tôn nhà chị họ tôi như thác đổ, hết ngày này sang ngày khác như không bao giờ có thể dứt. Cha đi gặp bạn bè, để mặc tôi trong căn gác nhỏ, với một tủ sách mà chị họ tôi may mắn còn giấu lại được sau những đợt tiêu huỷ sách cũ ngày mới giải phóng. Và thế là tôi, với một nỗi trống trải đến kinh hoàng trong tim và nỗi nhớ Hà Nội quay quắt, đã tự lấp đầy mình bằng một nỗi cô đơn khác, sâu thẳm hơn, cùng cực hơn trong Một thời để yêu và một thời để chết, Bản du ca cuối cùng của loài người không còn đất sống…
Erich Maria Remarque và những tiểu thuyết về tình yêu đẫm nước mắt của ông đã mở ra cho tôi một khoảng trời mới lạ. Từ cái bìa sách đến từng con chữ, tôi ngấu nghiến, mê mải, khóc ròng, và như bừng tỉnh trong một niềm hoan lạc. Lần đầu tiên được mở mắt với những dòng văn học, những tác phẩm không ngần ngại khi nói đến tình yêu, đến chiến tranh, sự bi thảm, dồn đuổi tới cùng của thân phận… Rồi sau đó là Henry Miller, Rimbaud, rồi đến Alexis Zorba – con người hoan lạc (Nikos Kazantzaki)… Không thể diễn tả hết nỗi u sầu của tôi ngày đó trên căn gác nhỏ Sài Gòn, nỗi u sầu có thể dẫn tôi đến những vùng tối, những vùng cấm, để lần đầu tiên khám phá bản thân mình, lắng nghe tiếng nói bên trong của mình. Remarque, Henry Miller, Nikos Kazantzaki… và những cơn mưa tháng sáu ấy dường như còn rả rích trong tôi đến tận bây giờ…
Sài Gòn còn làm tôi ngạc nhiên bởi những thứ không đâu trên trái đất này có được. Lần đầu tiên nghe Khánh Ly hát nhạc phản chiến, trái tim tôi muốn vỡ. Những mảnh vỡ lạnh và sắc, ủ ê, xiêu đổ, tan hoang. Một thiếu nữ Hà Nội chẳng hề biết mùi đời lại ập ngay vào chất giọng “ma tuý” đó thì làm sao chống đỡ nổi. Tôi cứ ủ ê suốt một mùa hè với pho sách, mưa, và Khánh Ly của Trịnh Công Sơn, để rồi biết vượt qua nỗi nhớ Hà Nội quắt quay, để rồi phải lòng Sài Gòn, phải lòng con trai Sài Gòn lúc nào không biết nữa…
Ngày đầu tiên bước chân vào giảng đường đại học Văn khoa, chị họ tôi đã dẫn tôi đến tủ quần áo của chị, và nói tôi muốn chọn bộ nào cũng được. Với cô gái Hà Nội nghèo chỉ có vài bộ quần áo thay đổi, sang nhất là chiếc sơmi màu xanh hoà bình và chiếc quần đen, thì tủ quần áo của chị tôi là một “thiên đường”! Lần đầu tiên tôi thấy lạ lẫm vô cùng, vì sao một người đàn bà lại có thể sở hữu nhiều đến thế những chiếc áo dài lộng lẫy mà có nằm mơ tôi cũng không hình dung nổi. Ấp úng mãi, tôi mới dám xin chị chiếc áo dài màu hồng phấn, nhưng cũng chẳng dám mặc ngay. Để dành đúng ngày hội khoa, tôi đã mặc chiếc áo dài đầu tiên để đọc bài thơ Con gái khoa văn do chính mình viết. Không biết chiếc áo hay những vần thơ đã làm các chàng run rẩy, mà sau đó tôi đã nhận được… mấy lời tỏ tình!
Thành phố này đã biến tôi thành một con người khác, cởi mở, tự tin, năng động hơn, hay chính tôi đã được sinh ra một lần nữa nhờ vùng đất hào sảng mà chân tình này, tôi cũng không biết nữa. Nhưng bây giờ, nửa đời nhìn lại, tôi hiểu rất rõ rằng nếu không có mùa hè đầu tiên và những cơn mưa tháng sáu ấy, không có nhạc phản chiến và Remarque, hẳn đời tôi đã rẽ sang một hướng khác.
K.Y
(Nguồn: SGTT.VN)
Rất thích bài viết này! Nhưng ảnh minh họa hình như...khác nội dung
Trả lờiXóaChào Mây,
XóaCái hình ấy nằm trong bài viết của SGTT luôn. Mình chép lại nên giữ nguyên, không thay đổi. Cảm ơn Mây đã ghé thăm. Thân mến!