Thi sĩ Quang Dũng
Một.
Đọc
bài “Nhân cách lớn làm nên một con người”
trên báo Văn Nghệ Hội Nhà Văn VN (1) của Trần Ngọc Trác viết về nhà thơ Quang Dũng, một chiến sĩ
cách mạng trui rèn trong lửa đạn gian nan vì nền độc lập của nước nhà gợi trong
tôi lắm nỗi bùi ngùi. Vào thập niên 70 của thế kỉ trước, đất nước còn chia cắt,
lớp học sinh, sinh viên tuổi đời 18, 20 chúng tôi mê thơ ca tiền chiến trữ
tình, lãng mạn Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính… như một lẽ tự nhiên. Riêng nhà
thơ Quang Dũng qua những bài thơ được nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc mê hoặc
người thưởng thức:
“Em ở thành Sơn chạy giặc về/ Tôi từ chinh
chiến cũng ra đi…Vầng trán em mang trời
quê hương/ Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương…Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ/ Còn có
bao giờ em nhớ ta…? (Đôi mắt người Sơn Tây), “Thoáng hiện em về trong đáy cốc/
Nói cười như chuyện một đêm mơ…Em đi áo mỏng buông hờn tủi/ Dòng lệ thơ ngây có
dạt dào?” (Đôi bờ), “ Hồn lính vương qua vài sợi tóc/ Tôi thương mà em đâu có
hay”(Quán bên đường) … (Nhà văn Đoàn
Thạch Biền cũng dân Văn khoa Sài Gòn có tặng tôi một tập truyện ngắn mà anh lấy
câu thơ này làm nhan đề Tôi hay mà em đâu
có thương).
Đặc biệt bài thơ
“Tây Tiến” Quang Dũng viết cuối năm 1948 được bao người yêu thơ học thuộc, chép
vào sổ tay ở cả hai miền Nam, Bắc. Nhiều nhà xuất bản ở miền Nam đã cho in, phổ
biến bài thơ. Thậm chí còn gởi tặng
tận
tay tác giả. Nhà báo Lâm Bình đã bỏ công sưu tầm những mẫu chuyện lí thú này
(từ người con trai cả của nhà thơ – nhạc sĩ Quang Vĩnh) trong một bài viết trên
tờ An Ninh Thế Giới. “…Ông Vĩnh kể, khi
mới ra đời, bài thơ này gây được tiếng vang rất lớn bởi khi đó đại đa số chiến
sĩ trong đoàn quân Tây tiến là trí thức, học sinh, sinh viên Hà Nội. Nét hào
hoa trong từng câu chữ nói về đoàn quân “xanh màu lá” khiến cho không ít thiếu
nữ Hà thành có người yêu là lính Tây tiến phải nhỏ lệ.
Chính vì vậy, cho đến mãi tận sau này, có lẽ
đây là bài thơ duy nhất của người lính miền Bắc được ngay cả những người lính
cộng hòa miền Nam yêu thích chép lại trong sổ tay. Nhiều nhà xuất bản dưới thời
Việt Nam
cộng hòa cũng cho in hàng loạt.
Mỗi lần in xong, không biết bằng cách nào,
nhưng họ đều gửi sách biếu đến tận nơi. Tuy nhiên, để tránh những hiểu lầm,
Quang Dũng đều mang đốt sạch”.( 2) Chất hào sảng, chinh chiến phong trần
trong thơ – nhạc đã nói trên và cả con người Quang Dũng - chiến sĩ không chỉ có
tài thơ mà còn là họa sĩ, nhạc sĩ - đã đánh trúng vào sợi dây cảm xúc bằng
của bao chàng trai đang gian nan đời
trận mạc, vào tâm hồn lớp thanh niên thời tao loạn. Một đặc điểm làm nên tuyệt
phẩm “Tây Tiến” là đậm đặc, bàng bạc
chất phương Đông qua thể thất ngôn trường
thiên, qua thi pháp “thi trung hữu nhạc”. Bởi từng câu thơ, khổ thơ đến toàn bài đều mang tính nhạc như nhà thơ Xuân
Diệu đã nhận xét, “đọc bài thơ Tây Tiến như ngậm âm nhạc trong miệng”. Và người nhạc
sĩ tài hoa Phạm Duy, một trong những cây đại thụ của nền âm nhạc Việt Nam
từng để đời với nhiều sáng tác phổ từ thơ tiếp tục lưu hậu thế khi phổ bài thơ
thành ca khúc đặc sắc. Nguyên chất lãng
mạn, hào hùng được thăng hoa trong giai điệu, cung bậc bay bổng trầm hùng
khi ta lắng hồn theo lớp ca từ “Tây Tiến”:
Sông Mã xa rồi/ xa rồi xa (3l)/ sông Mã ơi…
Nhớ về / nhớ rừng núi / nhớ
chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi…
…Tây tiến/ Tây tiến/ người đi
không hẹn ước (2l)
Đường lên thăm thẳm/ một chia
phôi (2l)
…Tây tiến/ Tây tiến/ Tây tiến…
Đắm
hồn trong lời thơ, hồn nhạc “Tây Tiến” (và những ca khúc “Mắt người Sơn Tây”,
“Đôi bờ”…) tôi nhận ra một điều cần chia sẻ, đã là văn chương chân chính, những tuyệt phẩm của thế kỉ, thời đại tất
yếu sẽ chiếm lĩnh bền sâu trong muôn tâm hồn đồng điệu vượt lên, xòa nhòa mọi
cách ngăn địa lí, thể chế do đời, người phân định. Nhà văn Nguyễn Quang
Sáng, nhà thơ Nguyễn Duy đã từng có phút tâm tình thật, nhiều đêm thẳm sâu nơi
chiến khu, đất Bắc xa xôi mở đài Cộng hòa nghe Khánh Ly hát nhạc Trịnh Công
Sơn. Còn tôi và nhiều, nhiều bạn trẻ đôi mươi phía trời Nam cách trở cảm khái
đọc thơ, lắng hồn trong giai điệu nhạc thơ hào sảng, hào hoa của Quang Dũng là
như vậy.
Hai.
Sau 1975,
học xong lớp chuyển đổi sư phạm tôi dạy môn Ngữ văn bậc Trung học, tôi
lại càng hạnh phúc hơn khi soạn giảng
bài “Tây Tiến” của Quang Dũng như gặp lại người quen biết cũ. Thi phẩm này đã
từng tỏa sáng trong những trang đầu của nền thơ Cách mạng Việt Nam thậm chí
còn được xếp trong bộ “tứ bình” thơ Kháng chiến chống Pháp (“Bên kia sông Đuống” – Hoàng Cầm, “Màu tím
hoa sim” – Hữu Loan, “Nhà tôi” – Yên Thao). Vậy mà đứa con tinh thần rứt ruột đẻ ra ấy lại trở thành “oan gia” đeo đuổi
nhà thơ và các con của mình suốt một đời người! Khó mà tin được khi nhà
văn Trần Ngọc Trác đề cập đến “Tây Tiến” thì Quang Dũng, người cao to như Tây
lại lãng tránh, lo lắng. Như cái xua tay sợ hãi “Thôi xin ông, ông đừng nói với ai nhé”, lúc GS Hoàng Như Mai hoan
hỉ thông tin, “ở Sài Gòn họ ca tụng ông
ghê lắm”. Cả khi sau ngày đất nước
thống nhất, có dịp vào Thành phố Bác, dạo phố phải cải trang thành tay chơi Sài
thành, một bạn đọc nhận ra tác giả, Quang Dũng phải nói dối là người dân tỉnh Bạc Liêu mới dzô! (3) Còn
con gái nhà thơ, Bùi Phương Hạ phải rời bỏ Hà Nội làm cô giáo tăng cường ở vùng
kinh tế mới Lâm Đồng những đến ba năm! Những giọt nước mắt tuôn rơi của chị vì
những câu thơ “lung linh, sáng lòa, sang
trọng” của cha mình, những câu thơ từng chiếm lĩnh tâm hồn không chỉ với
đồng đội, chiến sĩ thời Tây Tiến mà cả những người yêu thơ đương thời, thế hệ
thanh niên sau này.
Nhiều
năm đứng trên bục giảng tôi đọc nhiều tư liệu, tham khảo không ít những bài
bình về “Tây Tiến” của các nhà nghiên
cứu, phê bình văn học, nhà giáo lâu năm với điểm chung nhất là ngợi ca hình tượng người chiến sĩ vệ quốc anh
hùng – hào hoa, đậm chất bi tráng với tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh! Có thể kể đến một nhận định đầy
thuyết phục của GS Hà Minh Đức:
“Tây Tiến là một sáng tác có giá trị về tư
tưởng, về nghệ thuật. Bài thơ được viết ra với những màu sắc thẩm mỹ phong phú.
Có cái đẹp hùng tráng của núi rừng hiểm trở, và vẻ đẹp bình dị nên thơ của cuộc
sống nơi bản làng quê hương, có cảm hứng mạnh mẽ hòa hợp với chất trữ tình nhẹ
nhàng mềm mại trong thơ. Đặc biệt Tây Tiến là bài thơ giàu nhạc điệu, nhạc điệu
của cuộc sống và của tâm hồn. Mỗi đoạn thơ mang một nhạc điệu riêng vừa mạnh
mẽ, vừa uyển chuyển khi đưa người đọc về với những kỉ niệm xa nên thơ và gợi
cảm…” (4)
Số
phận thăng trầm của thi phẩm chỉ được điểm qua với cách cảm thụ khác, mới ở vài khổ thơ (Gục lên súng mũ bỏ quên đời…/Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc…/ Đêm mơ
Hà Nội dáng kiều thơm…) còn chuyện
đời thực của nhà thơ, phần bên ngoài tác phẩm
không thấy nói đến. Thực ra đây đó, thi thoảng bạn đọc yêu thơ Quang Dũng
cũng biết chút ít điều này ở mục chuyện
làng văn nghệ. Nay tác giả Trần Ngọc Trác kể lại khá tường tận nỗi ám ảnh
nặng nề đầy chua xót. “Tây Tiến như là nghiệp chướng vinh quang của đời Thi sỹ”. (5) Bài thơ bị “đánh” vì cách hiểu áp đặt quan
điểm chính trị thô thiển, tác giả là chiến sĩ cách mạng lại cho ra đời thi phẩm
theo hệ tư tưởng của thành phần tiểu tư sản cho dù bài thơ được đông đảo người
yêu thơ hâm mộ.
Chuyện người
cầm bút bước chông chênh giữa cõi văn chương ủy mị / tuơi tắn
cách mạng, chưa thuận chiều, hợp nhất giữa văn chương và chính trị, ngẫu nhiên
như là “phạm húy”, như là săm soi chuyện đời tư, oan khiên dòng tộc…bị “đánh”
không tơi cũng tả thậm chí bị “treo bút”, “cấm vận” cũng có đến mấy “nạn nhân”. (Thời kỳ văn học
mà nhà phê bình lão thành Hoàng Ngọc Hiến gọi tên là “văn chương phải đạo” có
cả công thức tạo dựng tác phẩm văn học cách mạng: “căm, yêu, chiến, lạc”!). (6)
Thời gian và bạn đọc cùng sự đổi mới quan điểm nhìn nhận, thẩm định văn chương
đã trả lại cho đời sống văn nghệ, nền văn học nước nhà những tác phẩm đã từng
lao đao vị trí xứng đáng với giá trị vốn có cùng tài năng, tâm huyết đáng được
trân trọng của nhiều tác giả. Và thi phẩm
“Tây Tiến” lại tỏa sáng sau một
chặng dài 40 năm chìm nổi gấp ba lần đời
nàng Kiều luân lạc, phong trần của cụ Nguyễn Du! (Tác phẩm ra đời năm 1948,
sau đổi mới năm 1986 mới được nhìn nhận, đánh giá lại. Năm 1990 đưa vào giảng
dạy trong nhà trường, còn được tạc vào bia đá đặt tại tượng đài NTLS Tây Tiến,
Mai Châu – Hòa Bình. Về sự nghiệp thơ văn, tháng 8/2011, gần 3 năm sau khi mất
Quang Dũng được tặng giải thưởng Nhà nước đợt 1 ). Thăng trầm rồi lại được ngợi
ca trong đời sống văn học trong nước hay trên thế giới cũng là chuyện không có
gì mới. Nhưng nếu chỉ vì sự ấu trĩ của
trí lực, lệch lạc nhận thức, tầm nhìn khi có trong tay quyền thẩm định, phê
bình trong giới nghệ thuật mà tạo ra oan khiên, thảm cảnh cho người cầm bút
chân chính thì đó là một việc không thể tha thứ.
Được kết tình
“vong niên” với nhà thơ tài hoa mà lận đận, làm bạn với cô giáo Hạ hẳn cũng nhờ
chữ “duyên” để Trần Ngọc Trác xúc cảm
viết nên những câu thơ tri âm cảm động “Mười
năm ra trường còn lận đận/ Vì em – con Quang Dũng nhà thơ/ “Tây Tiến đoàn binh
không mọc tóc”/ Câu thơ xưa gian khó đến bây giờ”…Và anh vẫn còn tiếc nuối
mãi vì không chụp được ánh mắt, nụ cười thoáng nhẹ trước khi Quang Dũng từ giả
cõi đời. Tôi nghĩ thế mà lại hay, lại đúng với người con của “ xứ Đoài mây trắng”.
Bởi nhà thơ – chiến sĩ của một thời gian khổ - hào hùng “…Dốc
lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây súng ngửi trời/…Chiến trường đi
chẳng tiếc đời xanh…Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy/ Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” đón
nhận và sống cùng sự vùi dập không đáng có bằng “nhân cách lớn đã làm nên một con người’ và bằng tinh thần Tây Tiến hiến dâng tuổi thanh
xuân, tài năng, tâm huyết cho đời, cho dân tộc đương nhiên “Tây Tiến” và đời
thơ của Quang Dũng “ở lại trong triệu trái tim người” mãi đến mai sau.
Gia – Ray, 31/10/2011
Viết lại tháng 5/2013
N.N.P
(1) “Nhân cách lớn làm nên một con người” – Trần Ngọc Trác báo Văn Nghệ số 43, ngày
22/10/2011
(2, 3) Những câu chuyện phía sau bài thơ “Tây tiến” – Lâm Bình, báo An Ninh Thế Giới
(4) Tác phẩm văn học, bình giảng và phân
tích - Sách do GS Hà Minh Đức
chủ biên, Nxb Văn học, 2006, tr.67-68
(5) Chiều
xanh không thấy bóng Ba Vì - Khuất Bình Nguyên, báo Văn Nghệ số 17+18, ngày
27/4/2013
(6) Căm thù, yêu thương, chiến đấu, lạc quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét