Nhà thơ Vũ Quần Phương
Vũ Quần Phương thuộc lớp
nhà thơ chống Mỹ, nhưng không giống như Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Khoa
Điềm… Thành tựu nổi bật trong thơ ông không phải là những bài thơ về chiến tranh.
Cái làm nên tài năng của Vũ Quần Phương chính là chất suy tưởng và những tình
cảm nồng thắm, bình dị được thể hiện trong những bài thơ trau chuốt về ngôn từ,
hài hòa về âm điệu và hình ảnh được gạn lọc nhiều khi hóa thành biểu tượng. Thơ
ông lúc trẻ đã lắng đằm, heo hút, về sau càng mênh mang, thăm thẳm và giàu
triết luận.
Trong căn phòng đầy
sách, một chiều xuân nắng vàng, Vũ Quần Phương chia sẻ với tôi về những ký ức
của đời mình. Ông kể: “Sáu tuổi mình mồ côi bố. Mười tuổi đã xa nhà đi trọ học.
Ngay từ những ngày ấy mình đã thấm thía nỗi cô đơn. Có lúc thấy mình lủi thủi
không có ai chia sẻ. Cái nghĩ ngợi đến với mình từ rất sớm”. Đó là khởi đầu cho
những uẩn khúc trong tâm tư, tạo nên chiều sâu của tâm hồn. Sau khi bố của ông
mất, mẹ con ông phải sống nhờ trong một ngôi nhà thờ họ, mùa đông phải dán thêm
giấy bóng che bớt cơn lạnh, đêm đêm gió thổi vào miếng giấy tạo thành những
tiếng phù phù. Bao nhiêu năm rồi ông vẫn nhớ cái cảnh ấy. Không có nhà, thỉnh
thoảng lại phải chuyển đi nơi này nơi khác, mẹ thì làm nghề dạy học không đủ
tiền nuôi 3 người con nên phải đi bán thêm cau trầu ngoài chợ. Cảnh đói nghèo
ấy khiến ông sớm phải suy nghĩ và lo toan cho cuộc sống của mình…
Vũ Quần Phương học hành
cẩn thận, hết phổ thông, thi vào đại học Y Hà Nội rồi tốt nghiệp xuất sắc và về
công tác tại bộ Y tế. Đối với ông, công việc khởi đầu như thế là thuận lợi.
Nhưng rồi nỗi đam mê với thơ đã ám ảnh ông. Năm 1969 nhà thơ Chế Lan Viên
khuyên ông về công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam.
Vũ Quần Phương ít nhiều có lưỡng lự. Mãi đến 2 năm sau ông mới quyết định dứt
bỏ nghề Y thì bên Hội nhà văn đã đủ người, thế là ông về công tác tại chương
trình tiếng thơ, thuộc Ban văn nghệ Đài tiếng nói Việt Nam. Từ đó, Vũ Quần Phương vừa biên
tập cho chương trình, lại vừa tham gia nói chuyện thơ và trở thành một nhà thơ
chuyên nghiệp, một nhà phê bình thơ có danh tiếng. Đến nay, Vũ Quần Phương đã
có khoảng 2000 cuộc nói chuyện thơ cho đủ các tầng lớp nhân dân, khắp các miền
đất nước và trở thành một trong những nhà bình luận thơ đương đại xuất sắc nhất
hiện nay.
Có lần nhà thơ Trần Đăng
Khoa nói, trong những năm chiến tranh, Vũ Quần Phương bị khuất lấp đi sau những
nhà thơ khác. Đó là một sự thật. Tư chất của Vũ Quần Phương không thể ồn ào,
náo động, cũng không có đủ hồn nhiên để có thể dễ dàng được truyền tụng trong
cái thời thơ trở thành vũ khí đấu tranh. Ông bảo: “Thơ mình không cổ động chiến
tranh, mình viết về chiến tranh ở cái dữ dội trong yên lặng của nó.” Một trong
những bài thơ về chiến tranh có góc nhìn rất riêng của Vũ Quần Phương là bài “Chiều” (năm 1967) với những câu thơ chất chứa
nỗi buồn ly biệt:
“Trong ráng chiều sắp
lặn những đoàn quân đi
Bao chàng tuổi trẻ ôm
đồm súng
Sách vở còn tươi trong
mắt ngây
Dáng mẹ chờ con như dáng
đá”.
Cách nhìn đó như một sự
lạc điệu với xu thế chung. Nhưng đó cũng là sự báo hiệu cho một tài thơ sẽ còn
đi xa khi không ngại ngần khám phá những nghịch lý, những phần hiện thực bị vùi
lấp trong cái bão giông của thời đại và mỗi kiếp người.
Thực ra, một trong những
bài thơ hay nhất của Vũ Quần Phương thời kỳ ấy không phải là thơ chiến tranh mà
là thơ tình. Bài “Trước
biển” ông viết năm 1970
trở thành một bài thơ được nhiều người yêu thích. Không đơn thuần nói về nỗi
nhớ niềm thương, tình yêu ở đây gắn với những suy tư về cái vô tận mênh mông của
khát vọng và cái hữu hạn, ngắn ngủi của kiếp người. Giọng điệu trữ tình đằm
thắm, thế giới hình ảnh phong phú, đa tầng, những day dứt và thiết tha hòa trộn
thành một tổng phổ cảm xúc có sức mê hoặc.
“Vị biển mặn đến quá
chừng mặn chát
Hạt muối đời hai đứa cắn
chung nhau
Anh hiểu sao con sóng
sớm bạc đầu
Anh hiểu sao chúng ta
lại yêu nhau
Biển rộng quá biển cần
bờ cần đất
Bờ đâu xa bờ còn là có
thật
Biển không cùng biển vẫn
đỡ hơn anh
Trưa biển này anh chỉ
nắm tay anh
Sóng bạc đầu nhưng biển
mãi tươi xanh
Khi ta hết cuộc đời kia
vẫn thế…”
Làm ở chương trình tiếng
thơ được 12 năm, Vũ Quần Phương chuyển sang làm biên tập ở nhà xuất bản văn
học. Trong 6 năm làm xuất bản, ông đã trực tiếp biên tập, tuyển chọn và giới
thiệu nhiều tác phẩm có giá trị. Thời kỳ này Vũ Quần Phương dành nhiều thời
gian để viết phê bình thơ. Nhà thơ Trần Đăng Khoa, cho rằng Vũ Quần Phương có
tài điểm huyệt văn chương, lột tả cái thần thái của bài thơ một cách chính xác
và thuyết phục. Những bài bình thơ của ông luôn được đón nhận, nhất là với học
sinh, sinh viên, trở thành một tài liệu tham khảo quan trọng đối với nhiều thế
hệ học trò suốt mấy chục năm nay.
Từ năm 1990, ông chuyển
sang Hội văn nghệ Hà Nội. Từng làm chủ tịch Hội, tổng biên tập báo Người Hà
Nội, sau đó lại về làm hiệu phó trường viết văn Nguyễn Du. Nhưng có lẽ, chuyện
chức tước không hợp với ông, nên ông xin từ chức để dành nhiều thời gian cho
sáng tác. Ông tiếp tục công tác tại Hội nhà văn Việt Nam, làm chủ tịch Hội đồng thơ
trước khi về hưu năm 2005.
Đường thơ của Vũ Quần
Phương dường như khá nhất quán. Những tố chất khởi phát thời tuổi trẻ dần dần
đã trở thành nhân tố chính trong thơ ông. Càng ngày, thơ Vũ Quần Phương càng lộ
rõ hai yếu tố chính là tính trữ tình và sự suy nghiệm. Ông cho rằng: “Thơ là
kinh nghiệm sống được truyền đi bằng kênh của tình cảm”. Thời trẻ, ông thường
làm thơ bằng những cảm xúc chợt đến, những giây phút thăng hoa xuất thần. Nhưng
rồi từ cái phút xuất thần ấy, sự suy nghiệm đã đến len lỏi trong từng chi tiết,
biến hóa trong từng hình ảnh. Ông kể, bài “Trước
biển” được sáng tác trong
một lúc tình cờ, nhưng bài thơ ấy đã trở thành một trong những tác phẩm sinh
động nhất của ông. Về sau, khi đã có tuổi, ông thường làm thơ bằng chiêm
nghiệm. Tôi hỏi ông, với trường hợp ấy, ý tưởng đến trước hay hình tượng đến
trước? Ông trả lời: “Hình tượng đến trước”. Vũ Quần Phương hiểu rằng, trong một
bài thơ, nếu chỉ có ý tưởng mà không có hình tượng độc đáo thì bài thơ sẽ chết.
Vả lại, làm thơ, nếu chỉ có tư duy sâu sắc, thiếu đi cảm xúc, nếu chỉ có tỉnh táo,
thiếu đi mộng ảo, thì bài thơ trần trụi. Nghề thơ khó vì thế, sự kết hợp của
những thành tố tưởng chừng có thể phân định được ấy, thực ra lại tuân theo một
quy luật đặc biệt, đầy bí mật và không dễ lý giải. Vì thế, bình thơ, hiểu thơ
là một chuyện, làm thơ lại là chuyện khác, nó đòi hỏi tài năng. Mà tài năng lại
là yếu tố nằm ngoài ý muốn của con người, nó đến và đi lúc nào không ai hay
biết.
Khác với nhiều người, Vũ
Quần Phương khi đã có tuổi vẫn
giữ được sức sáng tạo dồi dào. Thơ ông về sau này càng giản dị, sâu sắc, đa
nghĩa và âm điệu giàu biến hóa hơn. Càng ngày thơ ông càng nói những điều đằm
lắng, lớn lao, đi vào cốt lõi của chuyện đời bằng một giọng bình thường.
Tình cờ nhìn thấy loài
hoa cúc biển, ông thương cho loài hoa:
“Đẹp mà không ai hay
Nơi này xa xóm mạc
Nhưng hoa thì phải đẹp
Mà hương thì phải bay”.
(Hoa cúc biển)
Lại có lần khác ông thầm
xót đau khi thấy những bông hoa đào mới nở, sau ngày xuân bị người ta vứt vào
xe rác, ông thốt lên “Hết phận
hoa thì thành phận rác” (Đám
tang hoa). Phận hoa cũng
như phận người ấy thôi. Biết bao bậc anh tài bị quên lãng, thậm chí bị vùi lấp
trong định kiến, oan khiên. Nhưng, con người vẫn phải sống theo chức phận, theo
bản ngã của mình.
Một lúc khác ông thấy
đời như một giấc chiêm bao, thời gian đi nhanh quá, và kiếp người ngắn quá:
“Cặm cụi mãi với đất đai
chữ nghĩa
Ngẩng đầu lên trời đã
chiều rồi”.
Và, rồi ông lại
nghĩ:
“Đêm nay hạt giống nằm
nghỉ ngơi trong đất
Tâm hồn ta về nghỉ nơi nao”.
(Trời đã chiều
rồi)
Đó là nỗi buồn cho
cái hữu hạn đời người và nỗi lo cho cả thân phận mình trong và sau sự sống. Ai
cũng sẽ phải đối diện với những điều sâu thẳm đó, chỉ có điều nó đến lúc nào mà
thôi. Nhà thơ là vậy, nói lòng mình, nhưng cũng là nói hộ lòng người.
Lại có lần, ông lấy
chuyện mình đi trong sương mù để mô tả những cảm giác của con người trước cuộc
sống. “Trong sương mình lạ cả
mình” (Thắng sương mù) và mọi vật, mọi người xung quanh đều
trở nên lạ lẫm. Một lần khác, ông lại thấy “Thân
ta lạc giữa hồn ta sâu thẳm” (Tranh). Có lúc tỉnh táo hơn, ông thấy mình
bế tắc, “Càng đi càng khát những chân trời” (Tiếng gọi).
Trong các nhà thơ đương
đại, Vũ Quần Phương là một trong những người đã hướng ngòi bút vào sâu thẳm
thân phận và nghịch lý của kiếp người. Ông lấy chính mình ra để khảo sát, để
suy nghiệm rồi đưa ra những suy tư nhiều lúc khiến người đọc phải giật mình.
Ngòi bút của Vũ Quần
Phương cũng hướng vào luận chuyện đời, suy ngẫm về con người nói chung. Nhìn
vào cái mặt nạ dân gian, ông thấy:
“Gương mặt con người
Còn giữ nét ngây thơ
loài thù”
Và ông thấy trong đó cả
những đau đớn truyền đời:
“Nụ cười sáng nhưng u
trầm đôi mắt
Gương mặt dài như giọt
lệ đang rơi”.
(Cặp môi người trên mặt nạ)
Khi ngắm vườn thú ngoài
trời, ông bỗng phát hiện:
“Thú dạo tự do
Người nhốt trong khoang
Toa tàu thép chạy quanh
vườn bách thú”
(Vườn thú ngoài trời)
Đó là những nghịch lý
đang hiện hữu. Ông luôn cảnh giác với những cái nhìn đơn giản, dễ dãi. Đừng
tưởng con người đã văn minh. Đừng tưởng loài người đã tiến bộ lắm. Có lúc Vũ
Quần Phương tỉnh táo mà thấy mọi thứ trở nên mù mịt. Có lúc ông nhắc nhở rằng
đừng vội tin vào những hiện tượng bên ngoài, thậm chỉ cả những gì nhìn thấy,
những gì nếm được.
“Nước trong thì không
đục
Nhưng trong mà có khi
vẫn độc
Chớ nản lòng phân biệt
Lưỡi người cũng chưa tin
được đâu
Nếm không ra vị độc”.
(Phản trà đạo)
Trong hành trình thơ gần
nửa thế kỷ của mình, Vũ Quần Phương đã đi từ tươi trẻ, sống động đến nghiệm
suy, từ cảm xúc đến trí tuệ, từ hiện thực đến trừu tượng. Trong những năm sau
này, thơ ông gần như bỏ qua mọi cầu kỳ về hình thức, phát triển mạnh ở trực
giác, đi thẳng vào cốt lõi của sự việc và thường biểu đạt những đúc kết của cả
một đời người. Kể ra, đó là một hành trình dài trong sự tìm kiếm mệt nhọc và
không giới hạn của nhà thơ.
Trong cái thời náo nức
những cuộc tìm kiếm các giá trị mới cho thơ, cả một xu hướng rộng lớn thoát dần
khỏi những trào lưu cũ đã hình thành, thì Vũ Quần Phương gần như không bị tác
động gì bởi tính thời thượng. Là người lịch lãm, đã đi đã sống ở mấy chục năm
cuộn sóng của một thời bão tố, lại tiếp xúc với cả nền văn minh phương Tây, đã
đọc và dịch thơ kim cổ, song Vũ Quần Phương đã chọn con đường gạn lọc trong
cuộc sống của mình những tinh túy để biến thành thơ. Và đó là con đường riêng,
con đường của một người tin vào những giá trị trường cửu của thi ca, những quy
luật cảm hóa của cái đẹp, thể hiện một cảm quan riêng và bản lĩnh sáng tạo vững
vàng.
Không chỉ suy tư về
chính mình, về kiếp người, về những chuyện thời thế, ông còn đi sâu vào những
suy tư trước lịch sử:
“Lịch sử như anh mù
Anh điếc
Anh câm”
“Lịch sử lề mề
Có khi lại nhanh như lửa
cháy
Cái gì không thành tro?”
Và ông ví nhà thơ là con
sâu đo, muốn đo vào tất cả.
“Đo bằng đời chưa đủ
Thì lấy tim mà cân”
(Con
sâu đo)
“Cân máu chảy đầu rơi
voi dày ngựa xé”
“Trang giấy nát mà trái
tim vẫn đỏ
Vẫn còn cân”
(Cân)
Như một quy luật với
tuổi già, người ta thường đi ngược thời gian, trở về với những kỷ niệm cháy
lòng của đời người. Vũ Quần Phương cũng vậy thôi, ông níu vào kỷ niệm mà sống.
“Năm tháng chẳng trôi
đi, năm tháng đọng lại
ở đuôi con mắt
ở nét cười mái tóc
ở câu đùa nửa chừng im
bặt”.
(Soi gương)
Trước sau, ông vẫn là
người hoài niệm. Trong căn phòng tĩnh lặng, ông lật giở từng cuốn số học trò,
tờ giấy khai sinh đã ố vàng dấu thời gian, bức ảnh cưới mấy mươi năm về trước.
Ông nhắc tên từng người bạn cũ thuở thanh xuân.
Trong sâu thẳm, thơ ông
lặng buồn, chênh chao, sương khói, nhưng trong đời thường, ông là người giàu
tình cảm, sẻ chia và chu toàn. Và sẽ là thiếu sót, nếu không nhắc đến những bài
thơ ông tặng mẹ, cha, tặng vợ, tặng con cháu, bạn bè, đồng nghiệp. Đó là những
bài thơ bày tỏ một tấm lòng với những chi tiết nhiều khi rất thực mà sâu sắc,
thiết tha.
Giờ tuổi ngoài 70, điều
kiện kinh tế không phải còn lo nghĩ. Hai người con trai của ông đã thành đạt,
trở thành người nổi tiếng tận bên Mỹ, một người là giáo sư toán học tài năng,
một người là chuyên gia công nghệ của hãng Google. Vậy nhưng không niềm vui nào
là trọn vẹn, hàng ngày ông vẫn thường da diết nhớ con, nhớ cháu. Nỗi nhớ triền
miên, không dứt.
Và nữa, có lúc ông bần
thần nhớ về những người thân yêu đã rời xa thế giới này, những người không bao
giờ gặp lại, nhớ những gì đã gặp trên tít tắp đường đời
“Trái đất tròn
Sao tôi không gặp lại
Những gì đã chia xa
Cứ mịt mù xa mãi
Mặt đường đầy gió thổi
Hạt bụi nào quen tôi.
(Bụi)
Cảm giác nuối tiếc cuộc
đời, nuối tiếc sự sống, nuối tiếc tình người là một cảm giác ôm trùm trong rất
nhiều bài thơ của Vũ Quần Phương.
Hà Nội 11-4-2012
T.S
(Nguồn: phongdiep.net)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét