Tác giả Đào Văn Đạt
Lời
giới thiệu của Nguyễn Trí: Tôi có cơ hội được gặp Tác giả truyện Gió Chiều Lồng Lộng ở
ngoài đời. Đào Văn Đạt là một người trực tính và rất hết lòng vì anh em.
Thoáng, có thể nghĩ Đạt vô tư. Nhưng tiếp xúc và đọc những gì anh viết mới biết
Đạt là một người có tầm nhìn cuộc sống khá sâu sắc. Là một người đàn ông mà
diễn tả sâu và sát tâm trạng của một phụ nữ có chồng bị mất trí - tương đối gọi
là có tài. Niềm yêu thương tha thiết với chồng, cái thiếu thốn nhục cảm
của con người được tác giả diễn tả một cách thần tình như mình là người trong
cuộc. Truyện như vầy ta vẫn thường gặp đâu đó ở ngoài đời. Một người vợ yêu
chồng hết mực. Chồng là một người lấy nhân ái làm trọng, cả hai cưu mang một cơ
nhỡ, người chồng bị nạn, cơ nhỡ từ cảm kích đem lòng yêu… Thường tình thôi,
nhưng qua ngòi bút của Đạt bỗng lung linh bảy sắc cầu vồng. Đây là một truyện
ngắn hay, đáng để độc giả bỏ thời gian để đọc.
Tôi
nghe nói truyện nầy đã được chuyển thể thành phim. Không biết phim ra làm sao?
Hy vọng phim chuyển được cái thần của truyện.
Nguyễn Trí (Hội viên Hội VHNT tỉnh Đồng Nai)
Đút
cơm cho thằng Bùm xong, chị vào trong vác búa ra phía sau chẻ củi. Mỗi lần đưa
cái búa nặng trịch lên cao, tay chị run bần bật và những nhát búa bổ xuống khúc
củi cứ trầy trật, nhọc nhằn hệt như cuộc đời của chị.
Mấy bà
đi chợ sớm, thấy chị một thân một mình làm những việc của đàn ông, ai cũng xót
thương. Số phận nghiệt ngã đã đưa đẩy chị vào con đường khốn khó. Anh Toàn, chồng
chị, sau khi bị tai nạn giao thông, mặc dù được các bác sĩ tận tình cứu chữa
anh mới sống được nhưng hoàn toàn mất trí. Người điên điên dại dại, suốt ngày
chạy tưng tửng theo lũ trẻ cười nói vô hồn. Ra chợ gặp cái gì thì lượm cái nấy,
có khi là vài cọng thun khoanh, bịch nilon, lon bia... thậm chí anh còn lượm cả
vỏ chuối, vỏ xoài mang về bỏ lênh láng từ ngoài sân cho đến trong nhà, có khi
còn bỏ cả trên giường ngủ. Chị Phụng suốt ngày vất vả với gánh tàu hủ trên vai
rao bán khắp xóm, chiều về lo cho má chồng già yếu, rồi cơm nước cho con cái
đến tận chạng vạng tối. Đã vậy, chị còn dọn dẹp cho sạch mớ phế thải mà anh
Toàn mang về. Nhiều lúc mệt quá, chị ngồi xuống bậc thềm khóc mướt. Nước mắt có
chảy riết rồi cũng khô, chứ số phận “có chồng mà như không” thì không dừng đeo
bám chị chẳng biết đến bao giờ. Thấy chị cực quá, má anh Toàn nói: “Mấy chuyện
nặng nhọc vậy sao con không nhờ thằng Sơn nó làm cho!”. Nghe má chồng nói vậy,
chị kéo vạt áo lau mồ hôi trên trán, đứng tần ngần hồi lâu. Anh Sơn là bạn thân
của anh Toàn, lúc chưa bị tai nạn, thấy gia cảnh anh Sơn nghèo khó lại mồ côi
cha mẹ, anh Toàn thương nên cho anh ở nhờ nhà mình để đi làm thuê cho xưởng
mộc. Tiền chợ hàng tháng, anh Sơn đều phụ cho chị, có khi còn cho tiền thằng cu
Bùm. Chuyện nhỏ nhặt trong nhà cái gì cũng nhờ người ta coi sao được. Chẻ xong
củi, mặt trời lên khá cao, anh Sơn đi làm ca đêm cũng vừa về đến nhà, thấy chị
ướt đẫm mồ hôi, anh cằn nhằn: “Sao không để đó tôi về chẻ cho! Làm việc nặng
nhọc tay chân phồng hết còn gì!”. Chị không nói gì, vào trong xếp mớ chén vào
gánh tàu hủ, quảy ra chợ.
Chiều,
trước khi đi làm ca đêm, anh Sơn xách nước đổ đầy các lu, ôm mớ củi vào bếp xếp
gọn gàng. Xay đậu nành cho chị Phụng xong, anh dặn dì Hai: “Ở nhà, má đừng đi
lại chỗ giếng nước nhen! Nó trơn, dễ té lắm!”. Rồi quay qua thằng Bùm dặn đủ
thứ chuyện, mà bé Bùm biết gì mà dặn với dò, nói đây là để chị Phụng đang rửa
chén dưới nhà sau nghe: “Ở nhà, đừng cho mẹ chẻ củi xách nước nghe con!”. Như
sợ chị Phụng không nghe, anh lặp đi lặp lại hai ba lần với thằng Bùm giọng thật
lớn. Chị đâu có điếc nên dù ở nhà sau, chị vẫn nghe rõ, chị còn thấy anh ngồi
xuống ôm thằng Bùm vào lòng hôn nhẹ lên trán nó rồi âu yếm như thể con mình.
Nghe, thấy vậy thôi, chứ chị Phụng nào có quan tâm. Mấy tháng nay, ngày nào chị
cũng nghe anh nói với thằng Bùm mấy câu ấy, nhưng thằng Bùm là con nít mới biết
nói bập bẹ, đâu hiểu gì những lời từ tim anh gởi gắm, anh đi rồi, ở nhà chị làm
rã mồ hôi mà nó có cản tiếng nào đâu. Chị chỉ lo giờ này sao anh Toàn đi đâu
chưa về. Đám con nít cả xóm đã về nhà bưng cơm ăn hết rồi mà sao tiếng cười
hoang dại của anh chưa vang ngoài đầu ngõ. Chị thương cho thân anh. Hồi nào tới
giờ không quen sương gió, bây giờ vì bệnh tật mà dãi nắng dầm mưa. Hồi mới phát
bệnh, ngày nào chị cũng đi tìm anh. Hỏi thằng Tèo thì nó nói thấy anh đứng nhai
mía ở dốc Đình, chạy xuống dốc Đình không thấy anh đâu. Hỏi thằng Tí thì nó nói
mới thấy anh đội cái bao bố lên đầu đi ra hướng chợ, chị chạy ra chợ, bà con
nói thấy anh cười ha hả chạy theo đàn bò của chú Hai mới đuổi lên xóm trên, chị
lại chạy lên xóm trên… Đôi chân chị mỏi nhừ vì chồng, tai chị nghe đầy những
câu nói suông thương hại. Tất cả những thứ đó sao bù lại được những gì mà anh
Toàn trước kia dành cho chị. Bởi vậy, chị không hề than khổ với ai. Ngay cả anh
Sơn, người ở chung nhà gánh vác hết mọi chuyện phụ chị, anh cố làm vơi đi nỗi
cô đơn, nỗi trống vắng trong chị, vậy mà chị vẫn một lòng chung thủy với tiếng
cười hoang dại của anh Toàn. Ngày cũng như đêm, chị chăm lo thật tươm tất từ
trong ra ngoài cho anh, mặc dầu chưa khi nào anh Toàn nhận ra chị là vợ mình.
Chủ
nhật, anh Sơn sửa lại chỗ dột trên mái nhà. Chị đi bán về, thấy anh một mình
lúi húi móc liếp tranh lên cây tầm vông bỏ lên nóc nhà, rồi bắc cái thang trèo
lên cột lạt. Sợ anh té, chị đến vịn cái thang, anh Sơn ngoái đầu nhìn xuống
cười ấm áp. Mấy người hàng xóm đi ngang thấy chị vịn, anh trèo thật tình tứ
liền che miệng nói nhỏ với nhau: “Coi hai đứa kìa, hổng mấy xúi con Phụng bước
thêm bước nữa với thằng Sơn cho đỡ khổ!”. Họ chỉ nói nhỏ với nhau vậy thôi, chứ
chị Phụng cũng biết bụng dạ mình như thế nào mà. Nhưng làm vậy coi sao đặng,
anh Toàn tuy điên điên, dại dại nhưng vẫn còn sống sờ sờ trước mặt. Làm vậy chị
tội cho người đàn ông trong anh, tuy bây giờ anh mất trí nhưng thân xác trần
trụi kia liệu có tha thứ cho chị khi đầu ấp tay gối với anh Sơn. Nghĩ đến đó,
tự nhiên chân chị muốn trèo lên nóc nhà kêu anh Sơn xuống để chị cột lạt. Ngồi
trên nóc nhà thấy chị bước lên thang, anh hốt hoảng: “Ê ê, coi chừng té! Mà làm
cái gì vậy? Để đó cho tui!”. Chị vẫn trèo lên rút sợi dây lạt bó
liếp tranh đang tấp tả phất phơ như thách thức phận tay yếu chân mềm. Hiểu tính
chị, anh Sơn chỉ còn biết âm thầm trèo xuống lấy cây dù lên che cho chị. Anh sợ
chị nắng, chị đen chứ chị mà có cần gì đến anh!
Càng
ngày bệnh anh Toàn càng nặng. Ban đầu, anh có đi đâu chăng nữa thì chiều cũng
về nhà cho chị Phụng tắm rửa thay đồ, riết rồi nửa đêm anh chưa về, rồi sáng
đêm anh vẫn biền biệt. Chị Phụng đi tìm hoài mà không gặp, đêm về chị trằn trọc
lo cho anh, nghe tiếng thở dài của anh Sơn dưới nhà sau, lòng chị chao đảo.
Nghe anh Sơn trở mình, cái giường tre kêu lét két chị càng thương anh Toàn
nhiều hơn. Chị nhớ ngày mới cưới, anh Toàn tay ngang đóng cái giường tre không
chắc, hai đứa nằm mà nó cứ kêu kèn kẹt, má chồng nằm bên trong lãng tai tưởng
nhà hôm nay nhiều mọt. Đêm nay, tiếng động quen thuộc đó lại vang lên từ giường
anh Sơn, cộng với tiếng mưa đêm rào rào ngoài mái hiên, chốc chốc lại vọng lên
tiếng tằng hắng cô độc của anh Sơn, càng làm cho chị Phụng lạnh thấu xương. Căn
nhà trên, chỗ chị nằm, sao mà rộng quá, trống trải quá! Ôm thằng Bùm vào lòng,
chị ứa nước mắt. Nằm bên trong dì Hai cũng trăn trở, bà ngồi dậy ngoáy trầu,
mắt nhìn ra hiên trông ngóng: “Tụi bây đi kiếm thằng Toàn lần nữa coi, mưa lớn
quá, tao lo!”. Chị Phụng vội ngồi dậy, thằng Bùm khóc thét, anh Sơn ở nhà sau
cũng vội chạy lên. Với tay lấy cái áo mưa trên vách, anh Sơn nói với chị: “Ở
nhà với thằng Bùm, để tôi đi!”. Anh Sơn đi rồi, chị Phụng lặng lẽ ẵm thằng Bùm
vào trong với bà nội, rồi cũng nhẹ nhàng bước ra cửa.
Mưa
rát rạt, trời tối đen, anh Sơn đi tìm một vòng từ dốc Đình ra đến chợ, rồi rảo
bước lên đến xóm trên mà cũng không thấy anh Toàn đâu. Anh ngồi xuống lề đường
nhìn màn đêm mà nghĩ đến chị Phụng ở nhà lo lắng rồi mất ngủ. Nhờ tia chớp của
mưa đêm, anh phát hiện mờ mờ cái áo trắng của chị Phụng ở phía xa. Anh vội chạy
lại, chị Phụng hứ một tiếng: “Sao không đi tìm anh Toàn mà quay lại với tôi
chi?”. Anh Sơn không nói gì, choàng áo mưa qua đầu rồi kéo chị sát vào người
nói khẽ: “Sao không ở nhà, ướt hết rồi, trời lạnh lắm!”. Chị Phụng thoáng rút
vai lại định chui ra nhưng vòng tay anh Sơn rộng quá, vững chắc và ấm cúng quá,
đã kéo chị bước đi như người mộng du. Chị đi mà như không định hướng được mình
đang đi đâu, bàn tay rắn chắc của anh Sơn đã đưa chị rẽ vào căn chòi vịt hoang
ngoài đồng vắng. Mặc anh Toàn giờ này đang ở đâu, mặc cho những lời dao búa của
dư luận, lúc này chị chỉ còn thấy ngã nghiêng, bồng bềnh trong vòng tay trần
săn chắc của anh Sơn. Dưới làn mưa đêm mù mịt, căn chòi nhỏ xíu trên đồng không
che đủ hai thân thể đang cuồn cuộn khát khao tình cảm, họ gần nhau trong ngổn
ngang trăm mối tơ vò... Ngoài trời, mưa vẫn ào ào, gió giật từng cơn làm ngã
nghiêng những tàn cây trên đồng. Từ một khúc quanh phía xa, dáng anh Toàn thấp thoáng
trong mưa đêm, vừa đi anh vừa nhảy tưng tửng. Một hồi lâu có lẽ vì thấm lạnh,
vô hồn bước chân anh tìm đến căn chòi. Trời tối quá, anh lần từng bước nhẹ
nhàng vào chòi. Bỗng tia chớp loé sáng, trước mặt anh hai cơ thể trần trụi đang
mơn trớn lấy nhau, anh bước tới gần hơn rồi bất thần vỗ tay cười ha hả, tiếng
cười của anh Toàn như xé tan màn đêm vốn tối tăm huyền bí. Chị Phụng đẩy anh
Sơn ra, vội chạy vào màn mưa. Chị chạy thật xa. Xa lắm. Vậy mà tiếng cười ngây
dại của anh Toàn vẫn văng vẳng bên tai.
Sau lần đó chị Phụng cứ lầm lũi, cảm giác phạm một tội tày trời choáng lấy chị.
Anh Sơn vốn ít nói, nay càng im lặng hơn. Suốt ngày, cứ lao vào những công việc
nặng nhọc, gặp nhau trong nhà mà như người xa lạ. Còn anh Toàn, vẫn với tiếng
cười hoang dại. Chị Phụng nghe tiếng cười ấy hàng ngày, vậy mà giờ đây tiếng
cười ấy cứ xoáy vào tâm can như muốn nhàu nát ruột gan chị. Phải chi, anh đánh
đập chị thì có lẽ sẽ nhẹ nhàng hơn. Chị nhắm mắt, những dòng nước tự do chảy
dài xuống má, xuống môi để cho chị nếm hết cái mặn chát, đắng cay của một người
vợ phản chồng.
Đọc lá thư đoạn tuyệt và những lời từ sâu thẳm trái tim của chị Phụng, anh Sơn
không nỡ làm người tình phải khổ đau và bị giày vò thêm nữa. Gom đồ đạc bỏ vào
ba lô, cũng chẳng có gì đáng giá để mà gom, chỉ vài cái quần đùi, một bộ đồ bạc
màu mà trước giờ anh vẫn mặc đi làm trong xưởng gỗ. Chỉ có đôi dép là mới vì
tháng trước chị Phụng đi chợ thấy người ta bán đại hạ giá mua về cho anh. Anh
không mang mà đem cất, định Tết này đem ra mang rồi chở thằng Bùm đi coi múa
lân. Anh Sơn ngồi nhìn đôi dép nằm lẫn lộn với mớ đồ hồi lâu, cuối cùng anh móc
nó ra khỏi ba lô đem để ngay ngắn dưới đầu giường chị Phụng, rồi trở xuống
khoác ba lô lên vai. Trước khi đi, anh dúi vào tay thằng Bùm vài tờ bạc: “Chú cho
con ăn bánh, ở lại nhớ ngoan nghe lời mẹ với bà nội nghe con!”. Anh bước ra
ngoài trong cái nắng vàng hoe của một buổi chiều gió lộng. Chị Phụng đi bán về
đến đầu ngõ, đứng nép mình bên bờ rào nhìn theo bóng anh Sơn khuất dần sau hàng
tre. Chị đứng tần ngần thật lâu, màu hoa tím bên bờ rào như tràn ngập trong gió
chiều lồng lộng.
Đào Văn Đạt (Bình Dương)
Rất hay! Cách em viết rất lôi cuỗn. Chúc em luôn thành công nhé.
Trả lờiXóaTruyện mang tính nhân văn sâu sắc. Chúc tác giả giàu sức sáng tạo, tiếp tục cho ra đời những truyện ngắn hay!
Trả lờiXóaCảm ơn Chú Nguyễn Trí đã có đôi lời nhận xét rất chân tình, cảm ơn Nguyễn Thi May 22 và Trần Hòa đã có lời chia sẻ. Hạnh phúc biết bao khi tác phẩm của mình được bạn bè, cô chú đọc và cổ vũ. Chú Nguyễn Trí thì mình có số rồi còn Nguyenthimay22 và Trần Hòa làm sao mình có số đây ta, để mình liên lạc và gặp gỡ ở ngoài đời đây ta?????
Trả lờiXóa