Từ
những ngày đầu, cuốn tạp bút, còn trong “thai nghén” giữa hai mùa Vu Lan*,
tôi được nghe tác giả thổ lộ, sẽ sớm trả
nợ bạn bè, thân hữu cho lòng
nhẹ nhõm! Món nợ gốc văn chương mà anh đã vay, trong mớ
duyên nghiệp gần 20 năm cầm bút của mình…(Đôi lời…)
Bẵng
đi gần nửa năm, một sáng tình cờ ghé anh Trương Văn Dân, tôi bất ngờ nhận được
“Những thằng già nhớ mẹ” (NTGNM) từ Vũ Thế Thành (VTT) gởi tặng. Cầm cuốn tạp bút trên tay,
tôi thực sự xúc động! Vậy là đứa con đầu lòng của anh đã chào đời, bằng cái tình
đơn sơ, mộc mạc đó!
NTGNM không dày, 150 trang, xinh
xinh. Bìa màu xám nhạt, phác họa một thằng
già (con) ngồi nhớ mẹ qua
chiếc laptop trên bàn viết giữa đêm khuya, trông thật cô đơn!
Tuyển tập với 18
tản văn đầy ngẫu hứng cô đọng, súc tích!
Bằng cái nhìn thông minh, hóm hỉnh, tư duy sâu lắng, nối kết sự đời trần trụi,
giữa thực tại và quá khứ, gói trong giọng văn khẩu khí lạ, ngông ngông- cay
cay, như vỡ ra từ giọt lệ khô rớt “một thời tuổi trẻ nổi trôi”, anh chia sẻ
buồn vui rất chân thành…
Tạp bút, còn gọi là tản
văn hay tùy bút (personal essay), “ai
muốn hiểu theo nghĩa rộng
hay nghĩa hẹp gì đó, mặc kệ”, một thể loại (có từ xưa?) dùng để diễn
đạt tính riêng tư; bày tỏ tâm trạng qua trải nghiệm sự đời của chính người
trong cuộc…
Anh gọi nó là “câu chuyện bàn rượu”! Những ai từng cầm bút,
thường ngại thể loại này, vì sợ lạc đường không biết lối ra. Nhưng với VTT, dù
tác phẩm đầu tay, vào đọc, tôi lại thấy là một ngoại lệ! Viết thong dong, đóng
mở tùy hứng, toát lên phong thái đĩnh đạc, nhẹ tênh đọng lại nụ cười thân mật,
dí dỏm!
Đọc VTT, có
lẽ ai cũng cảm nhận điều đó! Michel
De Montaigne, sống ở Pháp khoảng thế kỷ 16, một bậc thầy về “nghệ thuật tản
văn” đã nói “Mỗi người mang trong mình
tất cả phận làm người” ** Như vậy NTGNM,
ẩn chứa những phận người không riêng gì anh, mà của tất cả chúng ta đã và đang
sống trong cuộc đời này! Có thể nói, tuyển tập là 18 khúc “tâm tình hiến dâng”***, đậm màu sắc
nhân văn, xâu thành chuỗi, tác giả dành tặng những ai còn mẹ hay mất mẹ, yêu
thương sẻ chia cho nhau!
NTGNM, sót lại đâu đó chút hoài cổ, gạn lọc khá sắc sảo, đượm buồn man mác! Anh
bảo: “…ở tuổi “tiêu rắc lên muối” trí nhớ càng thảm hại, quên trước quên
sau, quên cái lẽ ra nên nhớ, nhưng lại nhớ cái lẽ ra nên quên. Bi kịch!” (Câu
chuyện trồng hoa)
Vậy mà, trong tuyển tập,
thả đầy những quên quên nhớ nhớ…ngọt lịm!
Thử xem cách anh diễn tả nghệ thuật thưởng thức hoa, đủ biết VTT lém lỉnh, đáo để cỡ nào? Nó làm người đọc thấm thía,
nhất là các bác sồn sồn, nghe như ngấm vị thiền… đang xuân!
“Cả đời chay theo…hoa- biết- nói, lời nói bay lên lượn xuống, rồi trôi đi tuốt
luốt. Bây giờ tôi lại chạy theo những loài hoa- không- biết- nói, ngắm nghía sự
im lặng của chúng…”(Câu chuyện trồng hoa)
Mở đầu mỗi tạp bút, VTT thường trích những câu hư hư thực thực, gợi tò mò nơi
người đọc, làm họ động não vào xem… đúng là một thủ thuật nhà nghề:
“Giang sơn đẹp hơn tranh vẽ
Bóng hào kiệt khuất dần xa
Hiệp nghĩa như chén rượu nồng cay…”
(Huynh
đệ tương phùng ba chén rượu)
Xuyên suốt tuyển tập, với giọng văn gãy gọn, từ ngữ sắc
bén, làm nổi bật hình ảnh và âm điệu! Ta thấy, VTT đã sử dụng dấu chấm lửng khá nhiều, rải khắp 18 tản văn! Phải
chăng, anh có ngụ ý nhấn mạnh dòng xúc cảm đang tuôn, hay cố tình bỏ lửng (…)
để người đọc tự suy tưởng?
Bằng lối dẫn này, ủ trong chất men tri thức, xen lẫn chút tếu, tác giả đưa
người đọc vào thế giới NTGNM một cách thật tự nhiên, và dường như, VTT đang sắm
vai kép độc, xuất thần trên sân khấu diễn say sưa, làm khán giả cuốn hút!
Luận về rượu, VTT
xem ra là một tay chơi lão luyện, qua cách mời rượu, đủ thấy cái tự tại, thâm
trầm trong con người anh. Chân thành, bộc trực! Không đẩy đưa, cũng chẳng bốc
đồng! Ai thích thì uống, rồi lại… “rót”, mọi người tự lượng sức nâng ly,
nhấp tửu! Với anh chỉ cần 3
chén rượu là tràn cuộc vui,
rỉ rả tới sáng! Mà dung tích chén có lẽ chỉ là ám ngữ, tùy hỉ! Chứ giới
hạn trong số đó, ai cũng uống như nhau thì cuộc chơi chắc sớm vỡ chợ, làm sao
cùng khề khà chén thù chén tạc, hiểu thấu tình đời “bi tráng” trong chén
“rượu độc” anh em nhà Tống Giang?
“Không sinh ly mà cũng chẳng tử biệt. Tống Giang và Lý Quỳ cùng uống chung bình
rượu độc, cùng bước ra khỏi cõi đời bạc bẽo. Đó là chọn lựa bi thảm. Tôi tiếc
cho cái chết ngu trung của Tống Giang và ngậm ngùi cho cái chết nghĩa khí của
Lý Quỳ, chỉ vì “ tình huynh đệ là chén rượu không màu…”
(Huynh đệ tương phùng ba chén
rượu)
Chia sẻ NTGNM, lại được mời nhấp“thiên
tửu vô biên” VTT chưng cất, nhà
văn Nhật Chiêu, say túy lúy bật cười ha hả, thốt lên:
“…Trời! Trong thiên hạ lại có “ thiên tửu vô biên” nữa sao? Thành ơi là
Thành, nếu thế thì sẽ có vô tận say giữa hoa quả cỏ cây trần thế, mặc kệ có địa
đàng hay không?...”
Trong “Chuyện của một thời”, VTT cũng bản lĩnh ra phết! Giai đoạn đất nước chưa
mở cửa, kinh tế khó khăn, anh đã lăn xả vào đời xoay sở bằng mọi nghề
kiếm sống, rồi một lần bén duyên, huynh đệ ba chén lai rai ngoài phố, VTT đầu
quân nghề đạp xích lô, trong tình huống bi hài, ngộ nghĩnh mà anh nhớ
đời!
“…Một bà bước đến bên bàn nhậu hỏi:
- Xích lô! Có đi không?
- Nghỉ rồi dì, thằng bạn lắc đầu
Vài ly rượu đủ làm tôi bốc lên:
- Để tao! Ngồi đó chờ một chút.”, tôi quay qua bà khách:
- Dì đi đâu?”
Hình như tôi có khiếu… đạp xích lô. Chẳng cần tập tành gì cả, mọi thứ đều an toàn
trót lọt. Nửa tiềng sau, tôi trở lại quán rượu, đặt số tiền của cuốc xe đầu
tiên lên bàn, cười sảng khoái: “5 giờ rưỡi chiều mai, tao ghé nhà mày lấy xe.”
(Chuyện của một thời)
Đọc cứ ngậm ngùi ứa nước mắt… và
như thấm tận nỗi cô đơn của anh đang dằn vặt tự vấn:
“… Nhưng trong cõi ta bà này, tháng tư năm nay, tự nhiên tôi muốn nâng ly
rượu, hỏi những thằng bạn còn sống: Hồi đó tụi mày ở đâu?”
(Hồi
đó tụi mày ở đâu?)
Hãy xem ông thầy giáo xưa, dạy bài học làm người qua chất giọng VTT, toát lên cái
tâm huyết sư phạm, đầy hình tượng:
“Ông giảng say sưa, bằng giọng bi ai, phẩn hận về thời Nho mạt, về danh lợi về
nhân phẩm, ổng truyền lửa cho đám học trò đang há hốc miệng ngồi nghe, xả suốt
2 giờ đồng hồ. Hình như ổng đang dạy cho tụi tui kiến thức để làm người, chứ
không phải kiến thức để đi thi…”
(Ông
thầy Việt văn)
Nhận xét về NTGNM, nhà văn Lữ Kiều, tưởng như đang
trò chuyện với bạn:
“…Tất cả dưới cái nhìn của VTT đều trở nên phong phú, đầy tư duy, mới lạ và
nhất là đầy tình cảm, nó đến từ một tâm cảm trân trọng và yêu mến cuộc sống
này, cho dù đôi khi bất hòa với nó…”
Sống bằng nghề khoa học, lại làm
báo nên cái máu khoa học của anh dính liền vào truyện- phân tích chặt chẽ, kiến
giải sắc bén! Đọc mà thầm nể con mắt tinh đời của tác giả, khi so sánh Khổng giáo và Nho giáo:
“Quá trình phát triển Khổng giáo từ đời Hán cũng hơn 2000 năm, với cả trăm,
ngàn triết gia thêm thắt chế biến nhiều, tiêu cực có, tích cực có. Tất cả đều
được gom lại và ấn… vào đầu Khổng Tử, gọi chung là Khổng giáo. Người ta không chịu
phân biệt Khổng giáo và Nho giáo, hay ít ra, giữa Khổng học và Nho học. Tội
thay cho phu tử! Mũi lái chịu đòn…”
(Khổng
Tử, nổi trôi giữa đời thực dụng)
Còn đọc đoạn
văn sau, lòng hiếu để bỗng vỡ thành con chữ, thấm hơn cả chục trang điếu văn
hoa
mỹ:
“Dọn dẹp nhà và thay quần áo cho bà
xong, tôi quỳ xuống, vái bà ba lạy, tạ ơn sinh thành dưỡng dục. Ngày mai
tang lễ, tất cả với tôi chỉ còn là thủ tục… Có những đêm rủ rỉ nói chuyện với
bà, tôi mới “hiểu ra” tâm tư của người già sắp sửa ra đi, khác xa
với lý lẽ khôn ngoan của sự đời… Để làm cho họ gật đầu thì tiền bạc, quyền lực,
hay lý luận khoa học trở thành vô nghĩa. Chỉ có tấm lòng bạn ơi! Chỉ có tấm
lòng và sự kiên nhẫn của chính bạn mà thôi…”
(Đừng như tôi, còn
ray rứt với những gì thiếu sót)
Đó là tâm trạng anh trong ngày mẹ mất, và cũng trong bài viết
đó, tác giả mở đầu bằng cái hiện thực trống vắng của mình sau mấy ngày tang lễ, nghe buốt nhói
tận lòng:
“Sáng nay, khi xuống lầu đi làm, tôi buộc miệng “Mẹ ở…” (…nhà, con đi làm
đây!). Tôi khựng lại, chợt nhớ ra bà mất rồi. Tôi nhìn lên bàn thờ, thắp nén
nhang, rồi đi…”
Làm nhà văn Trương Văn
Dân đã phải thốt lên: “…Tôi
cảm thấy ớn lạnh toàn thân khi đọc đoạn văn này! Giọng văn sắc lạnh. Mấy dấu
chấm bỏ lửng sau hai chữ “rồi đi”… giống như những giọt nước mắt của người vừa
mất mẹ đang chảy lên trang viết. Đột nhiên tôi thấy mình hạnh phúc và vô cùng
cảm thấy lo sợ vì tôi còn mẹ…”
Qua bài viết giới hạn này, tôi không thể nói hết những
khoảng lặng, thâm sâu về cuộc đời, về con người, ẩn trong những chuyện “Chả
lụa không phải là xúc xích”,
“ Ai mua thơ tôi bán thơ cho…”, “Già đầu mới mê nhạc sến” hay các chuyện hấp dẫn khác, đầy tính
mới lạ xin để người đọc tư duy, tự cảm…
Nói chung, 18 tạp bút trong tuyển
tập “ Những thằng già nhớ mẹ”, theo tôi, là một cuốn
tạp bút hay, đáng để xem!
Vậy, mời bạn nếm thử “câu chuyện bàn rượu” củaVũ Thế Thành, tôi
tin rằng, bạn sẽ ngộ-độc sảng
khoái…ha hả!
Sài Gòn, cuối tháng 09/2013
Nguyễn Ngọc Thơ
Ghi chú: Những dòng chữ nghiêng được trích trong tuyển tập “NTGNM”-
VTT
* Mùa Vu Lan 2011-2012
**Dựa theo Phillip Lopate-“The Art of the
Personal Essay”, Doubleday, New York, 1994-Phạm Viêm Phương & Nguyễn Phan Thịnh trích dịch (Văn Tuyển1-2013)
*** “Tâm tình hiến dâng” của đại thi hào Rabindranath Tagore (1861-1941),
Ấn Độ.
Cảm động Thơ à.
Trả lờiXóaLàm sao gởi cho Thằng Già này một cuốn?
Dạ, em sẽ cầu cứu Tác giả gởi cho "Thằng già"anh một cuốn qua anh thiiasao nhé! Lâu quá hổng gặp, ông bà Jin Jin phẻ không, buôn... cà có phơ khách chật quán?Chúc vui!
XóaThơ giới thiệu đến nỗi TVD phải để lại dấu vết đấy! Chúc mừng Thơ nhé!
Trả lờiXóaDạ, cảm ơn anh Duyên đã đưa bài viết này lên Hương Quê Nhà, em rất vui gặp lại "rượu bàu vua", ước gì có ngay cái ấy..mình cùng.cụng chén anh hén!(cừ)
XóaChào Thơ,
Trả lờiXóaVậy là phải có một bữa nhậu, Thơ nhé!
Vậy là có dịp...mình nhậu Bàu Đá của TVD gởi vô anh Duyên hén!
XóaCảm ơn anh!