Trong 2 năm 2012-2013, nhà văn Mang Viên Long xuất bản
liên tiếp 2 tập “Tiểu luận và Tạp văn” mang tên “Như Những Giọt Sương”. Sách có
nhãn NXB Hội Nhà Văn, mỗi tập dày đúng 448 trang, nội dung chia làm các phần:
Đạo Phật và Tôi, Văn học nghệ thuật và Tôi…
Thị trường sách
báo văn học nghệ thuật hôm nay ít được ngó ngàng, nhưng đây là những bộ sách
đang được những người yêu quý văn chương đón nhận.
Mang Viên Long
sinh năm 1944 tại huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Học xong bậc trung học ở Quy
Nhơn vào giữa thập nên 1960, ông từng vào Sài Gòn ghi danh vào Đại học Luật
nhưng sau đó lại trở ra Quy Nhơn theo học 2 năm tại trường quốc gia sư phạm,
rồi đi dạy ở Tuy Hòa (Phú Yên), nhiệm sở lâu nhất là ở tại trường trung học
Nguyễn Huệ. Tên tuổi và sự nghiệp văn chương trong buổi đầu của ông đều gắn
liền với thị xã hiền hòa nhỏ bé bên bờ sông Đà Rằng này. Trước năm 1975, ở miền Nam, toàn bộ giáo sư đều bị động
viên vào quân đội, sau đó được “biệt phái” về dạy học trở lại. Vì vậy sau biến
cố lịch sử, Mang Viên Long phải đi “học tập cải tạo” đến năm 1978. Lúc này giáo
viên dạy môn Văn và Anh văn là “không cần thiết” nên ông phải “hồi hương” về kiếm
sống tại thị trấn Bình Định quê nhà. Những chuyện này ông đều kể lại khá “tóm
tắt” bằng giọng văn hiền hậu, không oán trách trong tập sách. Cơ duyên đã khiến
ông được nương tựa trong nhiều cửa chùa dọc dải đất miền Trung; sau đó, học
được nghề làm chìa, sửa ổ khóa nên ông về mở một sạp nhỏ, hành nghề trên hè phố
gần chợ chính ở thị trấn quê nhà. Đồ nghề anh thợ khóa vặn được nhiều ốc vít
nhỏ, nên ông kiêm luôn nghề vặn kiếng đeo mắt, bơm gaz sửa quẹt.
Nhà văn Mang Viên Long
Điều bất ngờ là
với những chiếc chìa khóa làm thủ công, ông đã mở luôn được cái ổ khóa văn
chương của phần sau cuộc đời. Sau 4 tập truyện, 1 tập tùy bút được các nhà xuất
bản danh tiếng ở Sài Gòn xuất bản trước 1975, từ năm 2009 ông đã xuất bản được thêm 9 tập truyện ngắn.
“Như Những Giọt Sương” là bộ tác phẩm thứ 15 của Mang Viên Long. Bản thảo tập
thứ 3 của bộ tiểu luận-tạp văn này nghe đâu cũng đang được anh hoàn tất.
Huyện An Nhơn hôm
nay đã mang tên là một thị xã của tỉnh Bình Định. Thực ra, trước khi Nguyễn Ánh
chiến thắng nhà Tây Sơn, nơi đây chính là thủ phủ của đất Quy Nhơn; Thành Hoàng
Đế của vua Thái Đức Nguyễn Nhạc xây dựng trên nền đất của Thành Đồ Bàn cũ, nay
thuộc địa giới của phường Đập Đá và xã Nhơn Hậu thuộc phía bờ Đông của dòng
sông Côn, nối liền với vùng Tây Sơn hạ đạo, quê hương các vị anh hùng áo vải.
Chúng tôi ngồi bên nhau suốt từ trưa đến chiều trong căn nhà của Nguyễn An Đình, tức nhà thơ Nguyễn
Câu Mục của thời trước 1975. Con đường mới để quốc lộ 1 tránh trung tâm thị xã
đã được mở qua đây. Tôi chưa muốn cùng anh vào ngay trung tâm thành cũ, vì biết
sẽ không còn tìm lại được dấu vết của “lối xưa xe ngựa hồn thu thảo”. Nơi đây
với tôi cũng chính là nguyên quán; thuở nhỏ tôi vẫn được cùng cha ngồi trên
những chiếc xe ngựa từ thành Bình Định hoặc Đập Đá lọc cọc chạy về làng.
Tên gọi phân định
thể loại sách chỉ mang một ý nghĩa chừng mực. Thay lời tựa cho sách, tác giả
Ngọc Bút cho rằng bộ sách này là “Mang
Viên Long và một chữ tình để lại…” Tôi với anh cùng có những kỷ niệm mà anh
đã ghi trong bài “Một địa chỉ thân thiết: 38 Phạm Ngũ Lão Sài Gòn”, tòa soạn
bán nguyệt san Văn trước 1975. Đáng nói hôm nay là những chiếc chìa khóa mà anh
muốn giao cho các bạn trẻ muốn vào cõi văn thơ. Điều này rất khó nhưng quả là
có ích ngay cả với những người ở lứa tuổi cao niên. Bởi lẽ, chưa có lúc nào thơ
và những người làm thơ lại bị dè bỉu, chê bai như hiện nay, nhất là sau các
vụ trao giải thưởng. (Người đọc có thể tham khảo thêm bài viết khá
sâu về chuyện này. Một người viết ký tên Phan Xuân Luật trên trang web Hội nhà
văn TP.HCM ngày 22-10-2013 đã trích lời một cán bộ hưu trí, rằng: “… Bọn tui làm thơ có mong để trở thành Hội
viên Hội nhà văn Việt Nam đâu. Xuất bản thơ cũng đâu có mong các nhà phê bình,
các nhà thơ chuyên nghiệp đọc, viết bài, nhận xét. Vẫn biết thơ mình chỉ là
những lời nôm na, làm thơ để giải bày, chia sẻ thôi mà. Vợ chồng con cái, anh
em đọc thôi, có phổ biến rộng ra, bán ở nhà sách này, nhà sách nọ đâu. Ai nói
vì tụi tôi làm thơ mà kéo chất lượng thơ Việt Nam xuống thì tội cho tụi tôi quá.
Các nhà thơ chuyên nghiệp cứ làm thơ cho hay đi, đoạt giải quốc tế này nọ đi! Họ
không vươn lên được tầm này nọ là do họ, sao đổ lỗi cho tụi tôi… Trong thời buổi
kinh tế thị trường, mọi thứ cứ xoay tít theo đồng tiền, vậy mà vẫn còn nhiều
người làm thơ, thế là đáng mừng, sao phải lo lắng nhỉ ?”
Nhà thơ Võ Chân Cửu
Thế nào là một
bài thơ hay? Từ năm 1995, Mang Viên Long đã tạp luận về chuyện này. Trước tiên,
ông mời mọi người hỏi ngược lại: Thế nào là một bài thơ dở? Trả lời bằng cách
dẫn lại những ý kiến đã được mọi người công nhận. Với Dương Quảng Hàm, là: “Tình ý không thể diễn tả được tự nhiên, lại
nhiều khi các nhà thơ gia công gò các câu thơ, đọc lên rất kêu mà không có tình
ý gì hay, thành ra thơ chỉ có xác mà không hồn”(Việt Nam Thi Văn Hợp
Tuyển-1939). Còn Hoài Thanh & Hoài Chân trong Thi Nhân Việt Nam
thì lại cho rằng: “… Từ Homère đến Kinh
Thi, đến Ca dao Việt Nam,
thơ hay vẫn là sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó ra đời giữa vui buồn với
loài người, và nó sẽ kết bạn với loài người đến ngày tận thế… Mỗi bài thơ hay là
một cánh cửa mở cho tôi đi vào một tâm hồn… Đi sâu vào một hồn người, ta sẽ gặp
hồn nòi giống, và đi sâu vào hồn nòi giống, ta sẽ gặp hồn chung của loài
người”.
Qua nhiều tìm
hiểu xa gần, Mang Viên Long kết luận (một cách chắc chắn) rằng: “Một bài thơ gọi là “dở” hoặc “hay”, tùy
thuộc vào một điều kiện tiên quyết là “con người”, và một điều kiện phụ thuộc
là “ngoại cảnh” hay cuộc sống, xã hội, thời đại”…
Trong bài kế tiếp
(cũng trong tập 1), ông lại “Thử tìm mẫu số chung cho Thơ”. Ông cho rằng “Thơ, dầu nhân danh trường phái nào đi nữa,
cũng đều do “con người” viết ra cho “con người” đọc”. Do vậy, theo ông tổng
hợp, mẫu số chung đó là: Cảm xúc-Trí tuệ-Nhân bản-Nghệ thuật.
Có thể từ cái mẫu
số chung này nên ông đã rất khó chịu trước việc một số người tự xưng là “nhà
thơ hậu hiện đại” đã tung ra các tuyên ngôn phủ nhận cảm xúc, nghệ thuật trong
thơ! Thơ “hậu hiện đại” hôm nay đưa ra các sự kiện như báo chí, bằng các từ ngữ
tục tĩu, dơ dáy; đòi phủ nhận tất cả những thành tựu cũ. Nên ông đã cho in lại
toàn bộ 3 bài “tranh luận” với một “nhà thơ hậu hiện đại” khi ông này tuyên bố
sẽ đánh tan mặc cảm về chữ “l…”!
Trở lại với bộ
sách, ngoài một ít tranh luận, làm rõ về văn chương, nghệ thuật, đa phần Mang
Viên Long nhắc về những kỷ niệm, và cảm hứng về những dòng văn hay, câu thơ cảm xúc của bằng hữu. Quá khứ
được tiếp nối qua nhiều người viết hôm nay. Nhờ ông mà tôi đọc được nhiều câu
thơ hay của những cây bút chưa quen nhiều như Nguyễn Tấn On (Lâm Đồng) Nguyễn
Như Tuấn (Bình Định), Trần Hoàng Vy (Tây Ninh)…Nhưng sau khi gấp tập sách, đọng
lại sâu nhất vẫn là những đoạn văn Mang Viên Long viết về các vùng đất mà ông
từng sống, đặc biệt là với “Tuy Hòa mùa Gió Nồm”:
… "Những buổi sớm chủ nhật, sau một đêm cặm
cụi bên bàn viết, hay ngồi ở một quán cà phê lề đường số sáu, tôi dậy muộn hơn
mọi ngày. Gió nồm thổi dạt dào qua khung cửa sổ lớn mở rộng khẽ đánh thức
tôi… Tôi trở ra hiên sau đón gió như đón nhận lời chào thì thầm tự trời cao. Tôi
kéo chiếc ghế dựa đặt dưới hàng tre, ngẩng nhìn từng cơ gió đi qua, mềm mại và
kiên nhẫn, trên đầu những ngọn tre cao nổi lên giữa khoảng trời xanh ngắt…”
Võ Chân Cửu (Lâm Đồng)
Để có sách “Như Những Giọt
Sương”, bạn đọc có thể liên lạc trực tiếp với Nhà văn Mang Viên Long - Email: mangvienlong1944@gmail.com
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét