Cuối năm, khi những dãy gió rét
mùa Đông Bắc tràn về, Bạc Liêu choàng lên mình một màn sương sáng ủ mỏng. Hơi lạnh
hạ xuống tận chân người, trôi lơ vơ như đám mây trời, ve vuốt lên làn da quen
chịu mùi nắng nóng, làm co ro và xám xanh. Từ ngoài kia đại dương, gió biển
tràn thổi nhẹ quanh quanh phố phường, lướt lên những hàng me xanh mới màu trái
non. Trong buổi trời gần xuân, những chiếc lá nhỏ xíu thả mình bay lững lơ, rơi
xuống và đậu lên mái của dãy nhà xây theo lối kiến trúc Pháp cổ, nằm im nghe một
lắng đọng dịu mềm rêu phong ướp lạnh.
Khu làm việc hành chính, nơi
làm việc của tỉnh trưởng Bạc Liêu thời Pháp thuộc, được che mát dưới những tàn
cây bồ đề và hàng dương già cũ, một thiết kế hoàn chỉnh để người và cây gặp
nhau trong một lắng đọng của thiên nhiên, đạt đến một thư thả trong những rối bời
bận rộn. Giờ đây, những cánh cửa xanh đã khép lại, im lìm. Đôi lúc, bàn tay gió
kéo đến gõ gõ giật giật. Không một tiếng vọng lại. Không một lời đáp trả. Một
trăm năm, thời gian quá lâu để cho những hào nhoáng kia còn đọng lại. Bóng cũ,
người xưa. Tất cả đã vùi chôn vào đất.
Vài năm trước, khi vào đây
tôi quen một ông lão làm vườn có mái tóc đượm màu mây, thời gian bỏ sót những vệt
sóng trườn trên làn da, dẫn tôi đi xem từng chỗ một trong dinh, ông huyên
thuyên kể về lịch sử từng căn nhà, từng góc cây, chiếc đồng hồ đá, từng kỷ niệm
riêng về ông nội lão, người từng làm nhân viên hành chính trong dinh cơ này. Ông
nói những ngôi nhà kiểu cổ còn rất nhiều ở đây, ngoài kiến trúc Pháp dễ nhận ra
là những cái cửa sổ rất lớn được xây dựng trên cao để đón gió biển. Những cơn
gió đến từ biển thổi vào cửa sổ, gió chạm các vách ngăn, gió luồn xuống tầng trệt,
gió lùa vào cả những căn phòng kín. Nheo nheo đôi mắt ngó xa xăm trời, tàn thuốc
vừa cháy rụi đến tay, giọng ông chùng xuống tiếc nuối, ở nhà cổ là có một máy
điều hòa thiên nhiên với năng lượng của gió và biển.
Đi tiếp vài trăm mét, Nhà Lớn,
dinh thự của Hội đồng Trạch nằm cạnh sông Bạc Liêu hiện ra trước ánh nắng chiều
vàng nhạt. Những mãng tường, chiếc cầu thang dẫn qua mấy tầng lầu, các bu-long…
tất cả vật liệu để làm ra ngôi nhà kia đều đến từ Paris, chở trong con tàu lớn,
lướt trên luồng sóng dữ, xuyên qua các đại dương và xây lên bằng bàn tay của những
người thợ được chọn lọc. Người xưa thật biết ăn chơi. Không biết bao nhiêu hạt
lúa do tá điền làm ra, bao nhiêu mồ hôi đã thấm vào đất, bao nhiêu công người oằn
lưng trên những cánh đồng thẳng cánh cò đã bỏ ra đủ để đổi lấy cơ ngơi ảo vọng
này.
Trong buổi chiều nhá nhem,
chiếc Austin Mano thời thượng từ từ dừng bánh trước cửa lớn. Một dáng người
sang trọng mặc áo vest trắng, tay cầm gậy batoong, đầu đội nón hồng mao bước xuống.
Cổng mở. Những người đầy tớ mặc bộ bà ba đen đứng xếp hàng, khoanh tay, cuối đầu
chào Trần Trinh Huy, tay công tử ăn chơi nổi tiếng Nam Kỳ Lục tỉnh. Những ngọn
đèn măng xông được thắp sáng lên trong dinh và ngoài sân. Tiếng đàn kìm khải
lên điệu nhạc trầm. Bóng người thiếu phụ buông rơi mái tóc buồn trên lưng, ngó
đôi mắt mòn mỏi, khuôn mặt héo hắt về phía xa, một vệt mờ khói khỏa lắp bóng
người đi biệt dạng. Quá khứ được kéo về qua màn kịch được dựng lại cho những du
khách hiếu kỳ xem rõ.
Bỏ lại thành phố sau lưng, đi
theo con đường thẳng, ta nhìn thấy một cung trời, một mãng biển hiện ra cuối điểm
dừng của nhận thức hạn hẹp. Bên bờ biển này, vào đợt thủy triều rút, mực nước tụt
xuống, bờ cát nhô ra vàng. Tháo giày, bỏ dép. Đôi chân trần chạm vào đất chạm nghe
mát lạnh, vài cơn sóng biển mỏng tang hiền lành tràn vào những dấu chân bỏ lại.
Dăm bóng ngư dân nghèo cuối lưng cong cong tranh thủ kéo lưới trong dòng nước cạn,
vài kẻ vung chài lưới vẽ lên mặt nước một hình tròn lỏm, có người trầm mình xuống
nước, nhẫn nại chạm tay vào cát tìm kiếm và thu hoạch chút gia tài biển bỏ sót.
Thủy triều lên. Người dạo mát, kẻ bám biển quay vào. Nước biển được rót tràn bờ,
mênh mông. Tôi ngó vào giỏ của một cậu bé tóc ngắn có làn da đen màu trộn giữa
biển mặn và nắng đổ, thấy vài gram tép, cá lưỡi trâu, dăm con ốc và sò huyết đựng
lưng chừng. Công sức đủ cho một buổi cơm sáng nghèo, đôi khi, cậu bán lại tất cả
thành quả cho những du khách nhiệt tình, nhận tiền, cậu nhét vào lưng quần và
đi về phía hàng ghe neo đậu.
Lựa một chổ ngồi, từ nhà hàng
Hương Biển nhìn ra ngoài khơi, trên nền trời và nền biển, những chiếc tàu cá xếp
thành hàng đang vút đi về phía xa, nhỏ bé và mất dần sau vệt mờ xa khuất. Hình
lặng, âm động. Giữa tỉnh mịt của mênh mông biển và trời, tiếng sóng chạm bờ
nghe như điệu nhạc chờ phát sau tấm phông màn sân khấu, khán giả đợi thêm một cảnh,
nấn ná xem thêm một kịch đời. Âm và ảnh đó đặt ta vào tâm trạng nhẫn nại của
người đi, hi vọng của kẻ ở lại cho một nhóm người trên một con tàu nhỏ, trên một
biển rộng, trên một muôn trùng sóng gió, trên một rủi ro nằm lại giữa dòng nước
lạnh ngắt. Ngư dân đã dựng lên sát mé biển này hình tượng một người mẹ, người mẹ
của chung tất cả loài người, Quán Thế Âm Bồ Tát tay cầm bình nước cam lồ và
nhành dương liễu đứng thanh tịnh nhìn về khơi xa. Tình thương từ trái tim mẹ sẽ
nối sợi dây đến với người lênh đênh, đêm và ngày, tuần và tháng, cho đến khi những
khuôn mặt cũ trở về nhòe nhạt sau làn hương khói dâng lên tạ ơn mẹ. Từ một bức
tượng tôn thờ mẹ của ngư dân, giờ đây đã có một ngôi chùa mọc lên, những nhánh
hoa vô ưu nở đỏ trên cành, khách hành hương chiêm bái có thêm những người chưa
đi biển, người mới lần đầu biết biển.
Nắng tàn. Mặt trời rời rã kéo
lê những đường ánh sáng vào mái nhà tiếc nuối, đắp chăn đêm ngủ vùi trong lời
ru sóng à ơi. Tháng giêng, chiều buông, màu xám đen kéo đến vây quanh, đôi mắt
nhạt tù mù, rừng cây tô phết màu lên hình khối. Khi thị giác vô hiệu, những
thanh âm của sóng từ đại dương mênh mông thổi về, thành điệu hò khi nhớ mẹ,
thành bản tình ca cho đôi vòng tay siết chặt, thành lời vỗ về cho kẻ cô đơn lai
vãng tìm lại chút kỷ niệm mong manh còn sót lại giữa dòng thời gian chảy cuộn.
Bạc Liêu, tháng giêng, mùa biển
trời xám trăng khuyết. Có con cò lạc bầy chao đảo bay trong gió, khản giọng gào
thét. Tìm mẹ? Tìm bạn? Tìm người tình mến thương trong côi cút? Thì ra, đôi khi
mãi bận rộn với thú vui riêng tư, với chút e è đã làm nó chểnh mãng với những mảnh
quan tâm, xa rời tình thân thiết, làm mòn héo khúc đợi chờ và khi giật mình
nhìn lại. Hút vào bóng tối thẩm sâu, chơ vơ trong trống vắng, lầm lũi giữa rộng
rãi ngun ngút… mọi thứ đã vút bay, biệt tăm cùng nắng sáng. Sóng gọi tên lạc
loài, gió nâng đôi cánh mòn mỏi thời gian lướt trên hư không đem đến cánh rừng
đước ngập tràn cuộc sống chim thú. Đưa kẻ lang thang muộn mằn trở về tổ, bầy
đàn rúng rính đón, nhảy múa trong làn sương thấm hơi biển kéo về thấm ướt cánh
áo.
Tháng giêng, mùa trăng khuyết,
màn đêm tối đen. Trên khung cảnh lẵng tịnh đó những đóm đèn màu đỏ tươi được vẽ
lên, sáng leo lét từ những con thuyền đánh cá quăng neo, nối đuôi thả mình lắc
lư. Những tấm lưới trắng cuộn tròn nằm gọn khoan thuyền trước, nghẻo đầu nghỉ
ngơi chờ đợi, dăm khi nhả ra lời bông đùa vu vu với gió, ngửa mắt nhìn trời đêm
thanh bình yên ả. Trong bước chân chông chênh sóng, khách mỏi mê vì xuôi ngược
đời người ẩm ê trí xác nên muốn dừng lại, nằm xuống và trút bỏ. Một bình rượu
và hai túi sầu muộn trộn lẫn mang ra. Ngửa cổ nuốt màn đêm. Chếnh vếnh say.
Bình minh lên, từ giã biển mặn,
ta dạm bước lang thang trên con đường cong cong rợp mát bóng nhãn, những hàng
tre ngã đầu nghiêng nghiêng hai bên. Tháng giêng không phải mùa nhãn chín nhưng ghé
lại và ngồi xuống đâu đó dưới những hàng quán trên vùng Giồng Nhãn, ăn đặc sản
biển và loại uống rượu được chưng cất từ những trái nhãn chín đượm mùi hương là
điều chẳng nên bỏ qua.
Bước vào quán, bạn thấy tay đầu
bếp cầm cọ chuối thoa chút dầu mỏng lên chiếc chảo nóng, đổ chén bột nhỏ pha
màu vàng nghệ vào và lắc lắc cho bột tràn mỏng theo hình tròn. Bánh sắp chín, đầu
bếp bỏ nhân trộn thịt vịt bằm, tép bạc, đậu xanh, giá sống, cà rốt băm nhỏ vào
giữa bánh và cuộn lại. Nhận chiếc bánh xèo còn hơi nóng bay phất phơ từ cô gái
mặc áo bà ba tím nhoẻn cười nụ làm khách càng thêm đói. Dùng tay xé một miếng
bánh xèo vừa miệng ăn, gói lại bằng những món rau sống miệt vườn gồm lá xoài
non, đọt cóc, đọt sộp… chấm vào vị nước mắm thấm. Nhai chầm chậm, nuốt nhè nhẹ.
Ta nghe vị chua của lá cóc, vị chát của đọt sộp, vị ngọt của thịt, vị bở của
tép và mùi nghệ thơm trong chất bánh giòn tan. Một ly rượu nồng đượm mùi nhãn uống
vào. Tất cả tan xuống, tỏa ra và thấm dần lên vị giác. Mùi bánh, vị rượu đem tới
và đánh thức những tình yêu còn chìm trong mê ngủ của khách, tình yêu dành cho
biển, tình yêu dành cho những điều được tạo hóa ban tặng cho người - thiên
nhiên khi còn cuộn mình ngủ trong mộc mạc.
Nguyễn Văn Hiến (Bạc Liêu)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét