Chắc gió đã bạt mất lời tôi,
khi quay về, Điền không mang theo gì, nó lẳng lặng xòe tay trước mặt tôi, tay
nó dính một lớp gì đó, bóng mượt, trong suốt, và đang khô quánh lại, khiến
những ngón tay đơ ra như đá. Điền bảo, “Keo dán sắt…”. Dường như những người
sản xuất ra loại keo này cũng không ngờ nó nhiều công dụng đến thế. Hai chị em
tôi tỉ mẩn lột lớp keo ra, mảng da non trên bàn tay nó bỏng đỏ nhừ, tươm máu.
Chúng tôi cùng ngó về chỗ khoang ghe, nghe tiếng thở thênh thang cùng gió…
Phần 2:
Cánh đồng không có tên.
Nhưng với tôi và Điền, chẳng có nơi nào là vô danh, chúng tôi nhắc, chúng tôi
gọi tên bằng những kỷ niệm mà chúng tôi có trên mỗi cánh đồng. Chỗ chị em tôi
trồng cây, chỗ Điền bị rắn cắn, chỗ tôi có kỳ kinh nguyệt đầu tiên… Và mai này
khi trôi dạt đến một nơi nào khác, nhắc đến cánh đồng này với cái tên của chị,
chắc chúng tôi sẽ xốn xang.
Sáng sớm ngày thứ ba, chị
ngồi dậy được, ngó quanh, chị hỏi, “Trời đất ơi, chỗ nào mà vắng tanh vậy nè”.
Làng xóm xa xa đằng phía những rặng dừa xanh thẩm. Đồng đất trống trơn, trên
đôi bờ kinh chơ vơ những cây gòn. Hai đứa nhỏ đầu mướt sương đang hí húi trộn
thức ăn cho vịt, nhìn chị ngạc nhiên đến ngây ngất. Giọng nói chị không bị thương
tích gì hết, trong vắt và ngọt ngào.
Chị hỏi “Tắm ở đâu, mấy
cưng?”. Tôi chỉ xuống kinh. Chị ngó những váng phèn, ngao ngán. Điền nói, đằng
kia có một cái ao.
Đó là một hố bom cũ, bình
bát mọc quanh, rau muống chằng chịt phủ kín mặt nước, cọng rau ốm nhằng, đỏ au.
Chỗ này, hôm qua, Điền đã câu được những con cá thác lác ú mềm. Chị trầm mình
dưới đó rất lâu, chẳng kỳ cọ gì, chỉ để nước lạnh chườm dịu lại những chỗ đau.
Lúc chị lên bờ, tôi thấy máu lợn cợn theo những giọt nước nhỏ xuống giữa hai
đùi, chắc chị đã làm gì với chỗ keo dán ác nghiệt ấy. Rồi cũng lâu lắc, cũng cà
nhắc từng bước ngắn như lúc đi, chị với tôi quay lại bờ kinh. Điền hí hửng khi
thấy chị chịu mặc chiếc áo sơ-mi thẫm phèn và cái quần cụt quăn queo của nó.
Chỉ có cha lầm lì dọn cỏ
quanh chòi. Chỉ có cha là hờ hững với thành quả của hai chị em tôi. Không chấp
thái độ lạt lẽo của cha, chị ngó về phía người đàn ông đang vồng lưng trong
nắng sớm, chếnh choáng: “Ba mấy cưng đẹp trai dễ sợ…”.
Vì lẽ đó? Có phải vì cha
mà chị ở lại với chúng tôi, trên một cánh đồng vắng ngắt. Những vết thương đã
lành rất mau. Chị cười, bị đánh hoài riết cũng quen. Tôi hỏi chị làm gì để bị
đánh. Chị cười, “Làm đĩ”. Rồi có lẽ chị áy náy vì quá sỗ sàng với chúng tôi,
chị vò đầu Điền “chắc mấy cưng không biết đâu…”.
Điền nhìn tôi cười. Chúng
tôi đã gặp nhiều, rất nhiều người phụ nữ giống chị. Cứ mỗi mùa gặt, họ lại dập
dìu trên đê, lượn lờ quanh lều của những thợ gặt, những người đàn ông giữ lúa
và bọn nuôi vịt chạy đồng. Họ cố làm ra vẻ trẻ trung, tươi tắn nhưng mặt và cổ
đã nhão, nhìn kỹ phát ứa nước mắt. Đêm đến, sau các đụn lúa, họ thả tiếng cười
chút chít, tiếng thở mơn man… lên trời, làm nhiều người đàn bà đang cắm cúi nấu
cơm, cho con bú trong lều thắt lòng lại. Tối nào mua rượu cho cha, chúng tôi
cũng đi ngang qua những đôi người. Chúng tôi nhận ra họ ngay, khi không còn
mảnh vải nào trên người họ vẫn điềm nhiên cười khúc khích và uốn éo thân mình
chứ không trơ ra ngượng ngịu, cam chịu như những người phụ nữ quê. Sáng sau, họ
xiêu xiêu biến mất, đem theo mớ tiền công ít ỏi suốt một ngày làm việc quần
quật của đám đàn ông.
Chị, cũng giống như họ,
chớm tàn tạ, đói rã ruột ở thị thành mới chạy xuống quê, cất cái quán nhỏ, giả
đò buôn bán bánh kẹo lặt vặt, thực chất là làm nghề. Ở đó đàn ông dễ tính và
thiệt thà. Chị sống nhờ những món tiền họ cắm câu đêm đêm, bằng tiền bán lúa,
dừa khô hay những buồng chuối chín. Cũng có lúc thu hoạch bất ngờ, khi chị mồi
chài một người đàn ông vào trò chơi giường chiếu, suốt hai ngày đêm, và chị
được một triệu hai. Đó là vốn vay xoá đói giảm nghèo, khi về tới nhà, với tám
trăm ngàn còn lại trong túi, hẳn người đàn ông ấy não nề biết bao nhiêu, oán
chị biết bao nhiêu khi thấy vợ con nheo nhóc bu quanh nồi khoai luộc trong nhập
nhoạng nắng chiều.
- Ăn trên mồ hôi nước mắt
của người ta nên lâu lâu bị đánh cũng đáng đời, hen mấy cưng?
Chị nói, và ngã nghiêng
cười, dường như chị thấy mình trả giá vậy cũng vừa. “Mà hên nghen, nhờ vậy mà
gặp được mấy cưng, được ở chung vầy, vui thiệt vui...”.
Cha không vui, vì có thêm
một miệng ăn. Bầy vịt cũng không vui, chúng mổ vào chân chị mỗi khi chị bước
qua rào, “bà ở đây làm chi để phần ăn của tụi tui bị xén bớt, trong máng độn
toàn là trấu ngán thấy ông thấy cha, đã vậy còn bắt tụi tui đẻ trứng để nuôi
bà”. Chị nhảy xổm ra, la oai oái, sau lại cười (mà con mắt đung đưa phía cha)
“mai mốt mấy con vịt quỷ này sẽ khoái chị, mấy hồi…”.
Nhưng tôi và Điền biết
thể nào chị cũng ra đi, trong mỏi mòn. Quãng thời gian chị bên chúng tôi, vì
thế cũng mong manh. Nhiều khi lùa vịt ăn mót một đỗi đồng, nghĩ chị bỏ đi, Điền
thảng thốt chạy về.
- Mấy cưng thương chị
thiệt hả? Tội chưa…!?? ”.
Chị ngạc nhiên, thấy nước
mắt ràn rụa trên má thằng Điền (mà chị không biết là nó bị bệnh chảy nước mắt
sống từ hồi chín tuổi). Thật cảm động khi đời đánh ta tả tơi bầm dập, vậy mà
hai đứa nhỏ này lại trìu mến, quyến luyến lạ lùng. Thêm một lý do nữa để chị ở
lại với chúng tôi, trong một mùa hạn nóng bỏng, bất thường.
Mùa đến sớm. Vì vậy mà
nắng rất dài. Mới rồi, chúng tôi dừng chân ở một xóm nhỏ bên bờ sông lớn mênh
mang. Mỉa mai, người ở đây lại không có nước để dùng (như chúng tôi đi trên đất
dằng dặc mà không có cục đất chọi chim). Người họ đầy ghẻ chóc, những đứa trẻ
gãi đến bật máu. Họ đi mua nước ngọt bằng xuồng chèo, nín thở để nước khỏi sánh
ra ngoài vì đường xa, nước mắc. Buổi chiều đi làm mướn về, họ tụt xuống ao tắm
táp thứ nước chua lét vì phèn, rồi xối lại đúng hai gàu. Nước vo cơm dùng để
rửa rau, rửa rau xong dành rửa cá. Con nít ba tuổi đã biết quý nước, mắc lắm
cũng ráng chạy ra vườn đái vô chậu ớt, chậu hành (báo hại cây rụi lá). Ở đó, có
người con trai bảo, “ước làm sao trước lúc má tui chết, bà được tắm một bữa đã
đời”. Câu nói này làm tôi thương anh ta quá chừng. Hôm tôi đi, anh tần ngần
đứng bên hè, hỏi nhỏ “Không biết em có muốn ở lại với… má tui?!”. Tôi lắc đầu,
hai gàu nước ít ỏi của má anh, tôi nỡ nào sẻ nửa?
Tôi giục cha rời khỏi cái
xóm tàn tạ đó. Những cánh đồng chúng tôi qua, lúa chết khô khi mới trổ bông.
Người ta không thể trồng đậu, trồng dưa vì thiếu nước. Bầy con nít giỡn nhoi
trên những con kinh khô trơ lòng.
Chỗ chúng tôi cắm lều cầm
vịt, nước đã sắc lại thẫm một màu vàng u ám. Nhưng chúng tôi chẳng có chỗ nào
để đi nữa, từ bờ bên kia của sông Bìm Bịp là vùng đệm cho những cánh rừng tràm
lớn. Mùa này, người ta lấy nước từ tất cả các dòng sông nhỏ, các con kinh để
bơm vào rừng, chống cháy. Chúng tôi cũng không thể ngược sông Bìm Bịp băng qua
vùng Kiên Hà, ở đó họ kiểm dịch thú y rất gắt gao. Và dịch cúm gia cầm nghe đâu
vẫn còn bùng phát khắp đồng bằng.
Để bầy vịt khỏi bị chôn
sống (điều đó đồng nghĩa với việc đứt vốn cho mùa sau), bọn tôi quyết định vẫn
cầm chúng ở đây. Chúng được nuôi trong sự mỏi mòn. Ngày ngày, tôi lùa vịt đi ăn
mót những bông lúa khô quắt queo trên đồng, không có nước chúng bì bạch, chậm
rì và chẳng thể đi xa. Trứng thưa thớt, những quả trứng chúng đẻ ra cũng chai
ngắt, dài nhằng, nhẹ tênh, vỏ dày sần sượng. Đòi hỏi gì nữa ở những con vịt đã
già, đã đẻ quần quật suốt ba mùa trước, đã vô vọng vì ngày càng khó tìm lúa và
cám trong máng thức ăn. Ngay cả nước để chúng tắm táp cũng chua lét vì phèn.
Mà, mùa mưa vẫn còn xa
lắm.
Ngày ngày, Điền rủ chị đi
giăng lưới, nhắp cá và tát những cái mương cạn. Cá ăn không hết, chị đem vô xóm
bán và hãnh diện đưa cho cha vài mươi ngàn thừa sau khi đã sắm ít quần áo. Mắt
chị nhìn cha đầy khiêu khích, “Cuộc đeo đuổi vẫn còn dài, cưng à…”.
Chị đổ lì. Chị tìm mọi
cách để sà vào cha. Một bữa chị bảo Điền xuống ghe ngủ với tôi, còn chị sẽ lên
chòi. Đó là một đêm tối nhờ nhờ, trôi trên trời một mảnh trăng mỏng leo lét.
Điền ngọ nguậy, xoay trở liên tục, nó kêu khó ngủ, đòi nghe tôi hát, bài gì
cũng được. Nhưng Điền vẫn thao thức, dường như giọng hát tôi không át được
tiếng sột soạt rạo rực trong cái chòi nhỏ trên bờ. Điền chê ngủ ghe chòng chành
quá chừng. Tôi biết lòng nó đang chao.
Điền có những ngày bối
rối. Nó hay hỏi tôi, “người ta thương mẹ ra làm sao?”. Mặt nó dãn ra, khi biết
cây kẹp tóc, trái dừa tươi hay con cá thác lác… mà nó dành cho chị cũng giống
hệt như người ta vẫn thường cho mẹ. Và niềm nhớ lúc đi xa, nỗi khao khát được
nằm gần, được dụi mũi mình vào da thịt người đó… cũng tự nhiên như ý nghĩ bình
thường nhất của những đứa con. Nhưng những nghi hoặc vẫn loay hoay trong mắt
Điền, và nó quyết định chịu đựng một mình, khám phá một mình. Thí dụ như đêm
nay, cái gì khiến tim ta đau nhói, cái gì làm cho ta cảm thấy giận dữ, nặng nề?
Khi tôi thức dậy, Điền đã
mệt mỏi thiếp đi, nó nằm co quắp, hai tay kẹp giữa đùi, mặt buồn như phủ một
lớp sương giá. Chị bước ra khỏi chòi, khoan khoái vươn vai. Sự ưng ý, mãn
nguyện lấp lánh trên khoé mắt. Khuôn mặt chị tràn ngập ánh sánh, như chị vừa mở
ra một cánh cửa mặt trời. Có một con đường nào đó trải dài trước chị. Chị cười,
bảo:
- Hồi hôm sương nhiều
ghê, nó nhiểu lên mặt chị hoài, nhột gần chết.
Rồi chị giành nấu cơm.
Chị xoắn tay áo lên hì hụi thổi lửa, đầu tóc xấp xãi dính đầy vảy cá. Trông chị
như bà vợ tảo tần. Hình ảnh ấy làm tôi ứa nước mắt, nhưng cha tôi chỉ lạt lẽo
nhếch cười. Vì cái cười đó mà tôi ứa nước mắt thêm lần nữa.
Cha đưa chị một ít tiền
ngay trong bữa cơm, khi nhà đủ mặt, “Tôi trả cho hồi hôm…”. Rồi cha điềm nhiên
phủi đít đủng đỉnh đứng lên, sự khinh miệt và đắc thắng no nê trong mắt. Chị
nhét tiền vào trong áo ngực, cười, “Trời ơi, ba mấy cưng sộp quá chừng”.
Điền và tôi rủ chị đi câu
(Chúng tôi cho là chị buồn, dù chuyện đó khá tức cười, làm điếm được trả tiền
mà buồn nỗi gì). Suốt buổi, không dính con cá nào, chị nói, “Mắc cười quá, tới
mấy con cá quỷ này còn chê chị”. Câu nói nghe tỉnh bơ, bâng quơ mà tủi vô
phương. Điền lặng bắt con cá rô lội xuống mương, lặn sâu, móc cá vô lưỡi câu
của chị. Lúc nó trồi đầu lên thì đã thấy chị cười.
Trưa ấy chúng tôi trầm
nghịch dưới nước rất lâu. Chị cười nôn khi thấy bùn bám dưới mũi tôi xám xanh
như bộ râu củ ấu. Tự dưng nét mặt chị bỗng âu yếm lạ, như đang nựng nịu một đứa
bé con và thằng em trai mười bảy tuổi của tôi đứng đực ra, chết lặng trong nỗi
ngượng ngùng. Nước cồn cào chỗ bụng nó, tôi biết chị đang táo tợn làm gì đó
phía dưới. Rồi phát hiện ra một mất mát lớn lao, chị thảng thốt kêu lên :
- Trời đất ơi, sao vầy
nè, cưng?
Chị toàn hỏi những câu
hỏi khó. Chỉ nghe thôi đã đau, nói chi trả lời. Thí dụ như có lần chị hỏi “Má
mấy cưng đâu?”, “Nhà mấy cưng ở chỗ nào?”, thằng Điền đổ quạu:
- Biết chết liền! (còn tiếp)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét