Trời mới tảng sáng, cơn
mưa bão vừa mới dứt hạt, tôi đã nghe tiếng Lão Sĩ từ ngoài sân gọi vào giọng cà
lăm:
-
Cho… mình nghe bản nhạc “Dừng bước giang hồ” của Hoàng Trọng, mà do Khánh Ly
hát nhé…. Một bản thôi, rồi đi ngay… khỏi, khỏi nước non gì hết.
Lão
cởi vội áo mưa treo mép hiên và dắt chiếc xe đạp dựng vào chỗ giọt nước của
máng xối. Chiếc xe đạp dính be bét bùn đất, không chắn bùn, không chắn xích,
chỉ hai bánh trơ trụi và một chiếc thắng tay, một chiếc thắng chân đạp lùi đều
nằm ở bánh sau. Lão không dùng thắng trước vì nhiều lúc xuống dốc quên bóp thắng
sau thì nó cất hỏng lộn đầu. Ấy thế mà nhiều lúc xuống con dốc dưới chân đồi
còn bị đứt cả hai thắng, hốt hoảng lão phải lấy hai chân cà xuống mặt đường để
giảm tốc độ. “Không khéo có lúc nào đó lao xuống vực như chơi”, người ta nói
với lão như thế. Lão chỉ cười khà khà khà, nhờ chiếc xe đạp ấy mà đôi chân tôi
dài nên cũng đở hơn. Lúc mưa đường trơn tuột thì sao? Thì lụi vào đống sình.
Hôm nay trông lão tươi tỉnh đến mình sớm, ắt hẳn có tin vui. Đã hơn hai tuần,
tôi ngồi đợi tin chị Phụng vợ lão bệnh nặng chuyển vào thành phố để mổ não, mưa
bão chưa kịp đến thăm thì lão đã về đến. Biết tính lão, tôi mở nhạc cho lão
nghe, nhưng khổ nỗi, lão chỉ nghe mỗi bản nhạc lão thích thôi rồi bảo tắt ngay
nếu không lão đứng phắt dậy phủi đít đi ra ngoài. Muốn giữ lão lại để hỏi han
chỉ bằng cách chế ly cà phê để trước mũi lão mới ngồi ráng lại được. Tôi một
tay xách bình thủy nước còn nóng đổ vào ấm găm điện hâm lại, cho sôi, một tay
lấy phin cà phê để trước mặt cho lão tự chế, rồi đi lấy bình pha trà. Vừa dứt
bản “Dừng bước giang hồ” thì đến bản “Tiếng xưa” giọng Thái Thanh ngân lên, tôi
đứng dậy thì lão đưa tay gàn bảo để nghe luôn.
- Hay lắm! Lão nói, bản
này Thái Thanh hát hay tuyệt, mình rất thích. Giọng Khánh Ly mình không thích
mấy, nhưng ả hát bản “Dừng bước giang hồ” nghe được.
Trong lúc nghe Thái
Thanh hát, lão ngồi nhịp nhịp chân, gật gù và miệng chắp chắp cà phê vẻ sảng
khoái, vừa dứt bản lão ra hiệu tắt máy.
- Ông biết không, mấy
tuần rồi mình thèm nghe nhạc kinh khủng. Hôm Phụng mổ xong tối về nhà họa sĩ
Đức Thành, hắn dành cho mình căn phòng ngủ ở lầu hai, cửa sổ nhìn qua quán
Karaoke, mẹ kiếp suốt cả đêm nó gào như mèo động đực, cái nhạc qủy quái gì mà đinh tai nhức óc chịu không nổi. Mình bảo
hắn cho mượn chiếc ghế bố qua phòng vẽ ngủ, nhưng âm thanh quái dị ấy cứ đuổi
theo không làm sao chợp mắt được, đành xuống dắt xe đạp ra ghế đá công viên
nằm. Không biết sao mình ngủ mê lúc nào không biết, lúc giật mình tỉnh dậy thì
chiếc xe đạp khóa vào chân ghế đá đã mất đâu một bánh trước, sáng phải vác về
nhà Đức Thành, hắn đem tới tiệm sửa xe đầu hẻm thay cho mình bánh khác.
- Cũng may chứ không nó
lột luôn quần áo cho anh ở trần như ông Qúi
say rượu nằm trước thì hết biết.
- Bộ áo quần ông Qúi còn
mới chứ bộ áo quần mình ngay cái phermetuya cũng không kéo được thì nó lột làm
chi, ăn mặc thế này mà nằm ghế đá công viên thì nó tưởng, nếu không ăn mày, thì
cũng là kẻ bần hàn ai thèm trấn lột.
Chuyển sang hỏi chuyện
Chị Phụng thì ông bất cười ha hả.
- Ngày xưa ở trong
trường đại học, nếu có ông thầy bói nào hạng giỏi nói là sau này có lúc cậu
nhận được cái quần dơ của đàn bà mà cậu mừng ghê lắm, có lẽ mình nhảy xuống lầu
chết quách cho xong, chứ không đợi sống đến ngày hôm nay đâu, đời mình sống với
vợ có lẽ hạnh phúc nhất là lúc ấy ông ạ! Lúc bả ở trong phòng mổ, bác sĩ phẫu
thuật lại là ông bạn của mình, mình ngồi tựa lưng vào vách hành lang chờ đợi,
nín thở nghe từng tiếng động khẽ ở bên trong, con muỗi vo ve bên tai cũng không
muốn đuổi, con muỗi chích cũng kệ mẹ nó không thèm đập. Một lúc lâu sau có
tiếng gọi, mình giật thót người lên, nước mắt tự nhiên chảy ràn rụa, mình
thoáng nghĩ thế là xong một kiếp người, nhưng cô hộ lý đưa cái quần ra bảo:
- Giặt dùm cái này đi, lẹ
lên.
- Không sao hả.
- Mổ xong rồi, tốt,
không sao.
Hú hồn, mình vui quá cầm
đồ xuống vòi nước bỏ xà phòng, dội, đạp, vò xối xả, vì bỏ xà phòng nhiều quá
nên xả hoài không hết, nước văng tung tóe, bị người ta mắng, mình cứ xin lỗi,
xin lỗi thế thôi.
- Nếu họ biết già rồi
còn ham… thì họ mắng cho nhiều nữa.
- Khà… khà ….quy luật tự
nhiên, ai chửi ai được, cái lộc của tạo hóa ban tặng mà không tận hưởng thì
cũng đắc tội với đời. Được nhiều mà mất đi một cái ấy cũng vất đi thôi, đành
uống rượu quên đời đến chết, thế thì nhiều tiền có sướng gì đâu, sống còn hơn
chết nữa là.
- Còn cha thì mất hết mà
được một cái là được hết chứ gì?
- Ông không biết đó chứ
tôi có mất cái gì đâu.
Vẫn cái giọng ương
bướng, láu lỉnh ấy vẫn còn mãi. Nói dứt câu, lão đứng phắt dậy quay lưng, mặc
áo mưa, mang ủng dắt xe đạp đi ngay.
-
Còn tám đứa nhóc ở nhà, Moa phải đi mua
gạo nấu cơm cho tụi nó ăn.
Tôi đứng nhìn lão lón
thón dắt chiếc xe đạp cộc cạch đi vào cơn mưa bão. Lão là vậy, tàng tàng, ương
ngạnh, bướng bỉnh và liều lĩnh. Những việc lão làm hầu hết gần như bằng bản
năng hơn là lý trí, điều lão muốn làm thì không ai ngăn, ai cản được. Lão là
người có học hành căn bản, có trí thức, biết nhiều ngoại ngữ, tinh thông kim
cổ, nói đúng hơn là con mọt sách thời đại. Tôi quen lão tính đến nay đã gần bốn
mươi năm, từ lúc tôi còn mụn trứng cá trên mặt còn lão bước sang tuổi trung
niên, có lẽ tôi là người thân lâu dài và duy nhất còn lại đối với lão ở xứ này.
Những người bạn khác vì không chịu nổi với lão nên phải bái bai thôi. Lão dị
tật đâu từ lúc còn trong trứng nước, cuộc sống cái gì cũng trái ngược với người
khác, người ta thích sống ở nơi bằng phẳng, thì lão sống ở nơi gồ ghề trên núi
cao, người ta thích trồng cây lương thực, cây công nghiệp để kiếm sống thì lão
thích trồng hoang tạp, tre nứa, người ta thích đi trong trời yên gió lặng, thì
lão cứ đi trong mưa to, gió lớn, nhiều người để tóc dài thì lão cạo trọc đầu. Vậy
nên thiên hạ cứ gọi lào là Sĩ cuồng, lão cũng sáng tác được nhiều thơ văn và
được nhiều người biết đến tên tuổi những năm ở thế kỷ trước. Lão nổi tiếng với
cái giọng điệu lạ lẫm ngông ngông, ngộ ngộ ấy, một cõi tàng tàng ấy mà nhiều
người nói lão khùng, dại chữ. Ban chủ nhiệm hợp tác xã cùng với chính quyền sở
tại thời bao cấp thấy lão có học hành mà sống đày đọa như vậy bèn gọi đổi cho
lão ba ha chè đông đặc thuộc loại tốt để cho lão có thu nhập và một ha đất mặt
tiền, nhưng bị lão từ chối phăng phắc. Lão nói cái mà lão thích không phải là
cái bỏ vào mồm chạy xuống bụng, mà là cái đập vào con mặt chạy lên đầu kia kìa.
Lão thích những tảng đá, những bóng cây, con suối chảy, có tiếng chim ca, có
trời cao đất rộng. Cái thích thì dễ, còn cái dám xả thân để chấp nhận mới là
khó, ở cái nơi đèo heo hút gió, tiền không, gạo thiếu, tìm một ngọn lửa nhóm
bếp, một vò nước sạch để uống cũng khó, huống chi là nuôi sống cả đàn con gần
chục đứa lóc nhóc với cái sức lao động còi cọc của lão. Hàng ngày lão phải vào
rừng sâu hái rau, bẻ măng, đốn củi để đem xuống chợ đổi lấy gạo, dầu, tương,
muối. Có những đêm tôi lên chơi với lão trên một cái chòi tre bên thạch động,
nghe tiếng mưa rơi, dế kêu, hoẳng tác, cú rúc thật ảo não nhưng trông lão rất
thích thú.
-
Đó con hoẳng nó về rồi đó, cậu nghe không? Có lẽ nó tìm bạn lạc đâu đó.
Cũng có những đêm trăng
rừng trong vắt, khi tiếng gà rừng cất tiếng gáy là lão đã thức dậy như từ hồi
nào, đánh thức tôi ra ngồi ngắm trăng, gần như lão ít ngủ vào ban đêm. Lão nói
vạn vật hầu hết đều sống dậy lúc về đêm, và tôi nghĩ ngay đến lão hồi sinh
trong những lúc này. Ngày xưa, lão thường nói với tôi – Cậu còn trẻ lắm đừng
nặng lòng với miếng cơm manh áo như vậy, không khéo biến thành kẻ nô lệ tầm
thường, nô lệ một cách vô thức, tức là nô lệ mà không biết nô lệ, nếu thiếu cơm
thì đi ra ngoài nghĩa địa ngồi chờ ai chết đào huyệt thuê, hoặc vào tiệm cơm
rửa chén bát còn hơn đi dạy thuê cho mấy trường đạo ấy, sáng ê a kinh thánh,
tối gõ mõ tụng kinh phật, tôi chắc chắn là cậu không mấy hứng thú làm việc ấy,
đó là kẻ bán rẻ linh hồn cậu biết không ? Cậu nên nhớ đời người có ba cái mất:
mất tài sản là không mất gì hết, vì mình có thể làm lại được, bị thương tật chỉ
mất một phần thân thể, nhưng mất chí khí là mất hết. Lão nói mà lão quên rằng
cái chí khí của người cố hữu thì chỉ mang lại sự độc tôn, cố vị và ích kỷ mang
lại sự tham vọng của riêng họ, nhiều lúc bị lạc lõng giữa lòng đời. Chí khí của
kẻ gian hùng thì dẫn đến sự rối loạn trong xã hội, mà chí khí của nhà khoa học
thì mới mang lại sự tươi mát cho nhân sinh. Như vậy cái chí khí nó cũng phải
cần theo cái trí tuệ (sáng suốt) và tình thương thì mới thành công được. Tôi
nhớ một đêm trong thời tao loạn lão nổi máu anh hùng mằng chửi tên sĩ quan dưới
chế độ cộng hòa, vì lừa lão nửa bao gạo trong lúc gia đình lão đang thiếu thốn,
qua đêm sau hắn tấm tức dẫn quân tới vây nhà lão bắt lính, hắn cứ nghĩ lão phải
lẩn trốn hoặc tẩu thoát thôi, vì lão đang mang tội đào binh, nếu bắt được thì
sẽ bị đưa đi lao công chiến trường, không sớm xanh cỏ thì cũng thân tàn ma dại.
Lúc bấy giờ lão đang ở nhờ cái lò bánh mì của người quen, phải mất hàng tuần
mới dọn dẹp gom tro than lên rừng trồng khoai lang, dây khoai mới bắt đầu đâm
rẽ củ thì hắn ta đến chỉ tay ra lệnh co đàn em: - Nhổ hết khoai đi cho tao.
Không ngờ từ bóng tối,
lão mặc chiếc áo ba lỗ rách lưng, cái quần đùi rách đít cầm thanh củi lù lù
chạy ra, huơ tay thách thức :
- Đứa nào dám nhổ đi tao xem!
Cả toán lính đứng ngẩn
ngơ nhìn lão, tên thiếu tá chỉ huy nói với tên thiếu úy kia:
- Một trí gỉa thế kia mà xem mạng mình thua mấy
củ khoai lang thì hãi lắm, tâm hồn điên loạn thế đó thì mình nỡ nào. Đi về
thôi.
Hú hồn, lão thoát nạn
lần ấy. Sao không biết thế nào mà lão bị bắt lính trở lại, ra toà án binh, đày
đi lao động chiến trường tận vùng biên giới Tây Nguyên, trời cho lão cái tài
ranh vặt, lão thuyết phục vợ tên tiểu đoàn trưởng, để dạy kèm cho các con hắn,
rồi mụ vợ thuyết phục hắn để cho lão trốn thoát. Lão đến một ngôi chùa sư nữ
dưới chân núi, vị Sư bà này cũng biết tên tuổi của lão, cho lão tạm trú qua
đêm, còn cho lão mượn chiếc áo tràng và giấy tờ của một sư cô trong chùa, kể cả
bình bát đi khất thực, tướng mạo nhỏ thó và khuôn mặt trái soan, lại mặc áo
tràng trùm khăn trông cũng giống như nữ tu thật. Thế là lão lầm lũi đi khất
thực, ai hỏi gì lão cũng ậm ừ, giả câm giả điếc không hề hé môi. Ra tới đường
nhựa lão đón xe nhà binh xin đi qua giang về thành phố ẩn náu trong tòa xuất
bản Quả Dưa Hấu, suốt ngày lão ở trong căn phòng toàn sách với sách tận trên lầu bốn, lão chất sách
tứ bề, chừa cái lỗ vừa đủ người ngồi, khi có sự cố thì lão chui vào đó lấy sách
bịt lại. Có lần bị động, lão chui vào chỗ an toàn thì chị vợ cứ đi theo mấy tay
cảnh sát nói:
- Chồng tôi đi rồi, chồng tôi không có ở đây
đâu.
Nghe vậy nó thêm ngờ vực
lục soát hăng lên. Lão ngồi trong vừa sợ, vừa tức vãi đái ra quần, ngu ơi là
ngu, sao mà nó dành hết cái ngu của thiên hạ thế chứ, thương chồng kiểu đó giết
tôi có ngày. Kiên trì đợi lúc cảnh sát đi rồi, lão sô chồng sách xông ra tát vợ
túi bụi, một hai đòi ly dị tức khắc, vợ chồng ông Tuệ Thanh chủ nhà xuất bản
can gián mãi lão mới chịu tha. Nói tới chia tay với vợ, thì từ lúc mới cưới đến
giờ lão đòi chia tay không biết bao nhiêu lần, lịch sử cưới vợ cũng ly kỳ như
cuộc đời lão, không có lấy một sính lễ, một tờ hôn ước, hôn thú nào cả, ngay tờ
giấy sống chung cũng không. Không cần phải họ hàng, cha mẹ, anh em họ hàng nào
chứng kiến. Mặc dù lão xuất thân từ một gia đình khoa bảng, cha là giảng viên
tiếng Pháp trường Đại học Văn Khoa, mẹ là con nhà danh giá, anh em học hành
đàng hoàng, làm công chức hạng khá đương thời. Nhưng lão cóc cần gì hết, mới vừa
lớn là lang bạt kỳ hồ, vào Nam xin dạy văn cho một trường trung học Bồ Đề, thấy
cô học trò lai tây xinh đẹp phơi phới tuổi dậy thì, lão đâm mê tít xin cưới cho
được, vị sư trụ trì chùa không chịu vì cháu cụ mới vừa học chưa hết chương
trình trung học đệ nhất cấp (cấp 2) , trông cao lớn nhưng ai gả đi lấy chồng ở
tuổi 15 – 16 như vậy.
- Mẹ kiếp , lão Hoà thượng này suốt ngày tụng kinh gõ mõ, niệm
Phật, niệm chú làm gì biết yêu đương mà xen vào chuyện của nhân sinh thế thái !
Lão chạy quanh cái giếng
nước chùa , đòi nhảy xuống tự vẫn. Lão Hòa thượng sợ thằng cuồng làm liều mang
tiếng, thôi đàng gả quách nó cho rồi. Thế là ba ngày sau lão ra chợ mua một xe
xích lô hoa hồng, kèm theo cỗ bánh kem hai chai rượu mang về chùa xin làm lễ
cưới, đó là ngày giáp tết, thầy trụ trì nói ở chùa vào ngày này bận trăm công
nghìn việc, làm sao coi ngày định tháng mà làm lễ, để sang năm ngày dài tháng
rộng sẽ tính. Lão lý sự : Sau ngày 23 tháng chạp, đưa ông táo về trời, các chư
tiên, chư thần cũng về chầu Ngọc Hoàng hết rồi, ngày 25 đền chùa đều dựng nêu,
sau ngày ấy là thuộc ngày chung, tháng chung của nhân gian, nên không có ngày
tốt xấu gì nữa. Còn bận rộn hả, cụ chỉ ngồi chứng giám, ăn nhậu lễ lộc linh
đình gì đâu mà lo. Thật, trời đất không có ai, giác giác hỷ, giác giác tha,
thôi ta tu hành chẳng chấp pháp, cấp tướng làm gì, thầy Hòa thượng thầm nghĩ
chốc lát rồi cũng phải gật đầu để lão làm lễ cưới. Cưới xong lão ra ngoài thuê
nhà đưa vợ về ở, vài ngày đầu lão sống rất sòng phẳng, từ miếng đậu phụ, quả cà
hấp lão đều chia rõ ràng không hơn không kém, “theo luật công bình”, nhưng sau
ba ngày thì lão tống cổ vợ về chùa ở lại. Sư ông thấy vậy gật gù an ủi: Con à!
cũng như con qua một kiếp nạn, coi như đi đêm bị qủy dữ hiếp thôi. Về đây tu
hành gọt bớt bụi trần tục, dưới tuyền đài mẹ con chắc cũng cạn lòng thấu hiểu
cho câu.
Phải nói rằng chị rất
đẹp, chị tên thật là Hélen, kết quả của một cuộc hôn nhân bất đắc dĩ giữa mẹ
chị và một sĩ quan Pháp, dẫn đến bi kịch, và chị trở thành kẻ mồ côi cả cha lẫn
mẹ. Ở môi trường tu học dưới sự giáo huấn nghiêm khắc của người cậu Hòa thượng,
ít để tâm đến đời sống bên ngòai, nên Hélen rất giản dị và chơn chất, đến nỗi
gần như khờ khạo, làm sao hiểu được người chồng ranh ma qủy quyệt kia. Chị về
chùa ở được ba ngày thì lão ta đến đòi trả vợ, sư ông không cho đi nữa. Đợi hôm
sau, sáng mồng một Phật tử viếng chùa đông đúc thì gã đến dở chứng, xách tới
một can xăng thị nộ: “Trả không thì bảo, đốt chùa rồi tính sau”, ông vua cũng
thua đứa cùng, hoảng quá sư ông bảo người đưa Hélen ra giao cho lão và dặn dò
cháu. A di đà Phật âu cũng là nghiệp chướng của một kiếp người dù trong nghịch
cảnh nào con cũng phải giữ cho tròn đạo hạnh.
Thế rồi lão đưa vợ lên
Cao nguyên Lâm Viên sống nhờ vào căn hộ tập thể của trường dạy nghề, lão cũng
xin dạy hợp đồng ở đó. Ngày đất nước bình yên với kiến thức và văn lực của lão,
đáng lẽ lão phải du sơn ngoạn thủy cho ra đời những tác phẩm hay để lại hậu
thế, nhưng lão lại dẫn vợ lên núi cho ra đời một đàn con lóc nhóc, một tấm hồng
nhan mặt hoa da phấn mắt nâu môi hồng, nhưng vợ lão lại sớm biến thành người da
xanh nanh vàng, môi thâm, mắt bạc, những cơn sốt rét đã hành hạ gia đình lão
chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần, thế mà một đàn con cứ sồn sột ra đời
ba năm một đôi, mỗi lần thấy bụng chị to người ta cứ trêu lão năm nay mưa nhiều
không có việc gì làm phải không, nơi ấy không có điện buồn lắm phải không? Lão
cười khá khà “Nhân sinh thích chỉ thế thôi”. Lúc vợ trở dạ đứa con thứ chín,
đêm sâu thăm thẳm, sương rừng dày đặc, trong nhà tối thu tối thùi, lão mò mẫm
ra góc thạch động, nơi gốc cây ủ lửa, lão lấy que khều thổi phù phù, không có
tăm hơi lửa củi gì hết lại phát lên mùi khai nồng nặc, té ra bầy tiểu qủy của
lão hồi chiều ra đó thi nhau đái, đứa nào đái nhiều hơn thì thắng cuộc, hết
nước trong bụng thì vào lu kéo gáo uống ra đái tiếp, tiếng nước dội vào lửa
nghe xèo xèo chúng khoái chí làm hung. Lão trực nhớ trong bếp tro gã còn lùi ba
cây diêm giấu trong hộp quẹt, còn có hai cây, lại lũ tiểu yêu lấy mất một cây
rồi, không chắc vợ lấy nấu cơm hồi chiều thì đúng hơn. Lão thận trọng để cái
đèn một bên, vửa quẹt sáng lên thì chị vợ tựa lưng thở cái phào, tắt mất. Còn
một cây làm sao đây, ấn tầm phú, ấn tầm phù, lão kéo tiêm đèn lên cao, rồi quẹt
cháy mồi được đèn sáng, lấy đồ đạc sắp sẵn treo lên ghi đông xe, bảo vợ ngồi
sau đẩy đi bệnh viện, xuống khỏi dốc thì chị vỡ ối bên khe nước. Cả hai thấm
mệt, lão đặt vợ tựa lưng vào vách đá, chà chà kiểu này nếu sinh con gái ta đặt
tên Tiểu Khê, bảy đứa con trai rồi nó phá như giặc, sinh đứa con gái là đạt yêu
cầu, vài phút nghỉ trôi qua, nhớm đít đi mụ vợ lại thở cái phào, đèn tắt tối
thui. Làm sao đây? Gã lùng vào xóm xin lửa, chó sủa gầm trời, người ta tưởng kẻ
trộm vác gậy ra thì lão la lên: Vợ đẻ, vợ đẻ cho xin mồi lửa. Mồi được đèn đưa
vợ đi sinh, sinh xong sáng cô y tá hỏi lão sinh đứa thứ mấy, lão ầm ừ nói hình
như lần thứ tám (lão cố giấu một đứa) thì phải.
- Chị có sinh đôi đứa
nào không?
- Không?
- Anh có nhớ hết mấy đưa
con anh không? Chị nói đứa thứ chín mà!
- Ừ, ừ chắc là vậy.
Nhân sinh hệ lụy, xong
một việc trần ai, mấy ngày sau đưa vợ về rừng nuôi dưỡng, nhìn trong nhà tương
chao, gạo, muối hết sạch, lũ tiểu qủy lại một phen ở nhà tự do hành tung nữa
rồi. Thôi, thôi nhổ khoai, hái rau rừng ăn tạm, ngày mai tính tiếp. Qua ngày
sau, lão đạp xe lòng vòng xuống phố. Tới chỗ Công ty thương mại thấy đổ một
đống nghệ, có bảng ghi thu mua nghệ, lão vào hỏi rồi về bàn với vợ:
- Ngày mai tôi đào nghệ
rừng chở xuống bán.
- Tụi nó ranh lắm, ông
coi chừng ở tù mọt gông.
- Tôi có cách.
- Cách gì?
- Tôi
coi tụi nó chẳng có kiến thức gì về nghệ lắm đâu, cứ làm không được thì thôi,
thuận mua vừa bán chẳng làm gì được nhau.
Thế là sáng dậy sớm lão
đào được một bao năm mươi củ ngải nghệ è ạch đẩy lên.
- Nghệ giống gì mà to thế này (người mua hỏi
lão)?
- Giống hoài sơn cổ, tức giống trồng trên núi
lưu niên đất tốt mới được vậy (được trớn lão chài) Nghệ này củ to hơn, giá phải
cao hơn chứ?
- Cũng một giá thôi.
- Thôi cũng được.
- Ngày mai còn, đem mua tiếp cho.
- Ừ – ừ để xem đã.
Cân nghệ trả tiền xong
là lão nhanh chóng nhảy lên xe dọt. Xuống chợ mua nào tương, chao, gạo, muối,
đường, bánh bún, đậu phụ, cà rốt, trái cây. Đến hàng cà chua lão cầm tờ giấy
bạc năm chục ngàn đưa cho chị bán hàng rồi ngồi lựa, mua bao nhiêu còn thối
lại. Nhưng khi cân xong chị ta đòi tiền thêm. Chị nói vì chưa lấy hàng mà sao
đưa tiền. Lão chẳng biết làm sao, còn chỉ có tờ năm mươi ngàn đồng cuối cùng,
mà cãi thì không lại, lão bèn lập kế bày trò, tìm ba cây nhang tới soi theo
điệu tứ tung ngũ hành, hai tay đan lận ấn đầu heo, rồi bắt ấn bấm tí chận ngọ,
miệng đọc lảm nhảm câu thần chú bằng tiếng phạn: Ấn ba ni bát di hồng - Ấn ba
ni bát di hồng. Miệng lão méo xệch, mắt trrừng lên lúc đỏ ngầu, lúc trắng dã,
trông nét mặt vừa buồn cưới vừa bí mật, chị bán hàng sợ xanh máu mặt, những bà
xung quanh xúm lại nói vào:
- Chết, chết bà trả lại cho ổng đi, không ổng
thư chết bà đấy, ổng là phù thủy trên núi Bối Phương mà bà không biết ông sao.
Bà khác nói:
- Tôi đã thấy ông làm người chết đi sống lại ở
dưới miếu Ba Cô năm ngoái kìa.
- Ổng làm nhiều phép thuật ma mị kỳ quái rất
huyền bí mà không ai hiểu được.
Bà bán hàng dữ dằn nổi
tiếng ở chợ Cây Bùi thế mà cũng xuống nước:
- Thôi ông nói vậy thì tôi trả lại cho ông.
Lão lại
làm già
- Bà nói bà không lấy là tùy bà, qua thế giới
bên kia sẽ có đấng âm binh, âm hồn, Nam Tào Bắc Đẩu xử.
- Tôi lỡ lầm thôi ông tha cho tôi, để tôi trả
lại cho ông, tôi còn nuôi chồng, nuôi con tôi nghiệp. Đây tiền của ông cho tôi
trả, còn cà chua, đậu phụ thì tôi biếu ông. Những người xung quanh nói vào:
- Ông tu hành ăn chay niệm Phật, vậy ông nên tu
tâm tích đức tha cho bà ấy đi.
- Được tôi tha cho bà, số cà chua, đậu phụ bao
nhiêu bà tính tiền lấy, còn thối lại cho tôi, chứ tôi không lấy không của bà.
- A di Đà Phật, A di Đà Phật, cám ơn thầy.
Lão đốt ba cây nhang,
miệng lẩm bẩm, tay bắt ấn, soi soi.
- Giải cho bà rồi đó.
- A di Đà Phật, A di Đà Phật, cám ơn thầy, cám
ơn thầy đức độ.
Lão nhận các thứ bỏ vào
bao cột lên xe đạp thả dốc chạy ù về tới chân núi, lão hú hú các con: “Chiến
thắng rồi, chiến thắng rồi”. Bầy tiểu qủy cũng hú hú nhau chạy xuống núi đẩy xe
cùng lão lên. Bày các thứ làm một bữa trần gian no nê.
Khi kiếm được thực phẩm
để trong nhà cho vợ con rồi, lão đi ngao du vài bữa tìm giống cây rừng về
trồng. Đã mấy ngày rồi mà lão vẫn mải mê công việc, khi về nhà thằng con trai
của lão ăn nấm rừng bị ngộ độc, bụng sình chang bang, hàng xóm tới đầy nhà, kẻ
thì hái lá mít ướt non đốt cho uống, người thí bắt cóc vàng làm thịt nấu cháo
cho ăn để giải, thằng bé ăn chay lâu ngày nên mới tiếp xúc với mùi thịt vài
muỗng đã nôn oẹ lộn ruột, tuôn các thứ trong bụng ra ngoài. Lão thì lăng xăng,
hốt hoảng phần vì đã bị một đứa đó ăn trái cây rừng trúng độc chết cách đó mấy
năm, phần vì rợn gai óc thấy chặt đầu lột da con cóc. Chẳng biết làm gì, lão
chạy lên gác nơi bàn thờ Phật. Cốc, cốc, cốc, cốc gõ mõ tụng kinh: nam mô hắc
ra dat na đa ra dạ da. Nam
mô a rị da bà lô kiết đế… Đệ tử chúng con vô thỉ gây bao tội ác bởi lầm mê. Đắm
trong sinh tử bao lần, nay đến trước đài Vô Thượng giác. Biển trần khô lâu đời
luân lạc, với sinh linh vô số điêu tàn, sống u hoài trong kiếp lầm than, con
lạc lõng nay tìm phương hướng. Cốc ….cốc…..cốc…. cốc. Đang lúc tụng kinh chị vợ
chạy lên:
- Giờ này mà còn tụng kinh, ai chứng cho ông mà
tụng.
- Nó… nó… sao rồi, lão quay lại hỏi.
- Người ta đưa đi bệnh viện rồi.
-
A
di Đà Phật… A di Đà Phật, lão lật đật dắt xe chạy, mấy thằng tiểu qủy nhìn theo
kêu:
- Cha …. cha…. cha chưa mặc quần!
- Lão nhìn xuống ừ… ừ… rồi chạy vào nhà mặc thêm
cái quần dài, tụi nhỏ nhìn theo cười:
- Tụng kinh mà mặc quần xà lỏn rách đít.
Lại thêm một kiếp nạn đi
qua, thằng nhỏ đưa tới bệnh viện được cứu sống.
Thời gian đi qua một
buổi chiều sau cơn mưa, bầu trời trong vắt, vạn vật như hồi sinh, khi ánh nắng
hồng rải đều trên đồi thông cao vút, đàn con lão cũng đã khôn lớn, chúng tản đi
tứ phương tám hướng cầu thực, một đàn cò bay qua lêu cọc cạc, lão nhìn đàn cò
và nhìn tôi.
- Tóc cậu chớm bạc.
- Đầu anh cạo trọc nên có lợi thế hơn không ai
biết.
- Khà, khá ngoài tuổi cổ lai hy rồi.
Đêm về, tôi ngồi với lão
bên gốc cây ủ lửa, lão khều khều những củ khoai lang thơm phúc lùi dưới tro
nóng. Dưới ánh trăng khuya, cơn gío thổi qua lành lạnh, mang theo mùi hương
nhựa thông ngào ngạt, lão khẽ đọc bài thơ mới viết cho tôi nghe.
Sướng quá đời ta sắp
tuổi già
Bao nhiêu học thuyết
bước đều qua
Nay về dắt bóng chơi am
vắng
Ấu trĩ vườn trăng một
tiếng gà.
Tôi bỗng thấy nhẹ nhàng,
nắm bàn tay nhăn nheo thô ráp của lão thầm cảm ơn rừng cây giữa một đêm mang
mang sâu thẳm.
Tháng
09 năm 2007
Trần
Quang Ngân
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét