PHẦN 7
Tôi bắt đầu hối hận vì đã cứu
chị và mang chị đi cùng. Có cảm giác chúng tôi nắm tay kéo chị lên khỏi một
vũng lầy để đẩy chị vào một vũng khác, cũng sâu.
Chị xuất hiện không đúng lúc.
Cha tôi có dấu hiệu mệt mỏi. Đàn bà, với cha, càng trải nghiệm càng chán
chường. Càng gieo rắc càng đau. Vết thương cũ mở miệng toang hoác, không da
thịt nào có thể lấp đầy. Cha không chấp nhận cả những người phụ nữ mà ông kỳ
công chiếm đoạt (của người khác), thì sao ông có thể tin tưởng ở sự hiến dâng?
Vậy đó, cuối cùng chị hiểu
được tại sao cha tôi lại phớt lờ mình. Tôi và Điền buộc phải kể câu - chuyện -
của - chúng - tôi để chị không phải ray rứt gì với thân phận làm đĩ. Những ký
ức chắp vá, đứt đoạn được chúng tôi kể khá chậm, một phần vì đã lâu không dùng
cách giao tiếp bằng lời, một phần do vài chi tiết khiến chúng tôi phải dừng câu
chuyện lại, vì thấy nhói ở đâu đó hay đợi chị thôi khóc. Thí dụ như cái đoạn kể
về kỳ kinh nguyệt đầu tiên của tôi. Máu chảy giữa hai đùi không tạnh được, tôi
thụp xuống, bụm chỗ ấy lại. Máu từ từ chảy qua kẻ tay, tôi thấy mình rỗng ra,
tái nhợt, chết dần. Thằng Điền vói bứt đọt chuối, tọng vào miệng nhai ngốn
ngấu, điên dại, để lấy bả rịt lại chỗ máu. Thuốc gò nghe nói cầm máu rất tốt,
cũng chẳng ăn thua. Hai đứa nhìn nhau khóc, tôi đã mơ thấy ngôi mộ của mình,
như chiếc giường giữa bốn bề đồng nước... Chị mếu máo vít đầu tôi vào lòng,
“Trời ơi, tội hôn. Lúc đó cha mấy cưng ở đâu?”. Tôi ngơ ngác, không biết, nhưng
dù cha có ở gần ngay đấy thì chúng tôi cũng chẳng thể cầu cứu.
Đã nói là chị em chúng tôi
phải tự học đủ thứ rồi mà. Những gì không biết, chúng tôi thử. Những gì không
hiểu, chúng tôi chất thành khối trong lòng. Nhiều khi thấu đáo được một điều
nào đó, chúng tôi phải trả giá cao.
Có lần chúng tôi thả vịt nghỉ
khúc kinh có bóng cây. Bỗng nỗi xấu hổ vì mình là con người xộc lên mũi sặc
sụa, khi tôi phát hiện ra chúng chẳng bao giờ cưỡng đoạt và gạt gẫm nhau.
Khoảng thời gian trước khi con trống trèo lên con mái rất thật, mềm mại, êm
đềm... Tuyệt không có gì là thô tục. Tôi sững sốt. Thằng Điền sững sốt. Trời
ơi, khác với những gì chúng tôi biết (qua cha tôi, má tôi), trong sự hoan lạc
(của những con vịt) đầy ắp thứ gọi là tình - yêu. Điền chới với, nghi hoặc lan
ra như một vòng sóng. Và khi chị xuất hiện, thì trong nó chỉ còn nỗi ân hận
giày vò.
Điền yêu chị, nhưng tình yêu
đó khiếm khuyết mất rồi. Sau giấc ngủ dài, bản năng nó đã không trở dậy. Trái
tim nó chỉ là hòn than nhỏ, không thể hâm nóng lại cơ thể ngã màu tro. Sợi dây
xúc cảm như lối đi lâu lắm không người lui tới, cỏ dại mọc bít mất, đường đứt,
cầu gãy...
Mà, kiểu yêu tinh thần để
nhìn nhau, để nắm tay, vuốt tóc, để nín nhịn và hy sinh chỉ tồn tại trong văn chương.
Chị cần nhiều hơn, nhiều hơn, nhiều khủng khiếp, tưởng như chị có thể ngốn
ngấu, bào mòn tất cả đàn ông trên thế gian này. Lúc đầu là kiếm sống, nhưng lâu
dần, sự chung đụng của thể xác làm chị nghiện. Thằng Điền tuyệt vọng.
Tôi cảm giác sự đổ vỡ khi
Điền đuổi theo chị, và chị thì chạy theo cha.
Một cuộc đua rã rượi, chẳng
đến đâu. Chúng tôi còn phải dành sức cho cuộc mưu sinh dưới nắng như tát lửa.
Cha quyết định bán bầy vịt đi. Ba người, mỗi lần xách vài ba con, chúng tôi
chia nhau đi dài xóm để bán lẻ. Nhưng cách ấy chẳng cho kết quả nhiều, nắm con
vịt ốm nhằng trong tay, xương ức gò ra bén ngót cũng đã đoán được. Thêm nữa,
mùa giáp hạt kéo dài, nhiều nhà chạy gạo còn gay, thịt vịt trở nên xa xỉ. Ti vi
thì vẫn đang ra rả về dịch cúm, những người biết chút đỉnh, rụt đầu, “Ăn vịt
đặng lây bệnh chết à?”.
Chúng tôi mang lũ vịt trở về,
con đường dẫn lên đồng rập rờn hoa mua tím. Cũng theo lối này, vài hôm sau, ông
trưởng ấp dẫn theo một cán bộ xã xồng xộc đến chỗ chúng tôi.
Tôi vừa sợ, vừa biết ơn những
người như thế này. Họ làm cho chúng tôi cảm thấy bớt hoang dã, làm chúng tôi
hiểu rằng, ngay cả trên những cánh đồng hoang liêu nhất thì chúng tôi vẫn bị
ràng buộc bằng hàng vạn luật lệ. Nhưng đồng thời họ luôn mang tai họa đến.
Dường như sự trừng phạt đang núp sau hai khuôn mặt bị nướng dưới mặt trời, bóng
nhẫy, tươm mỡ. Họ phơ phởn nói bằng thứ ngôn ngữ buồn cười (bọn chăn vịt chúng
tôi chẳng khi nào dùng những chữ chỉ thị, loại trừ tận gốc hay giải quyết dứt
điểm...). Thật đơn giản, khi nói “các người phải huỷ bầy vịt”. Cha tôi cáu kỉnh
gật đầu. Tôi và Điền kêu lên một tiếng buốt, ôi, những bạn - bè của chúng tôi
sắp bị chôn sống nữa rồi.
Cái nhìn chị chảy theo nước
mắt của thằng Điền, chị khẽ bảo, không sao đâu, mấy cưng. Chị đon đả, chèo kéo
hai người đàn ông lạ về phía mình, “Mấy anh thương em với, nỡ nào để cả nhà em
chết đói”. Một người càu cạu:
- Ở trên lịnh xuống tụi tui
cãi sao được.
Nụ cười đong đưa, tung tẩy
trên khoé mắt, thì em có bảo mấy anh cãi ai đâu, mấy anh giả đò không biết,
không nhìn thấy bầy vịt của em là được rồi. Dễ ợt... Thằng Điền bệu bạo cắn
răng, nó tự kìm nén bằng cách siết vai tôi đau nhừ. Cách đó năm bảy bước, giọng
nói của chị vẫn lướt như một dòng gió đầy hơi nước, thấm dịu lại hai khuôn mặt
(cố tỏ ra) cứng đơ. Một người nuốt nước miếng, ánh nhìn ham muốn như mũi kim
thò ra khỏi bọc, lơ láo. Mắt ông ta lột trần chị, và toan tính một thoáng.
Người còn lại có vẻ thú vị, háo hức như sắp được xem một vở cải lương hay. Chị
thấu hiểu đàn ông đến nỗi, ngay lập tức chị ngó về phía chúng tôi, ngầm báo,
cuộc thương lượng (về một sự đổi chác) đã kết thúc rồi.
- Hai anh cứ về trước, chút
nữa, em lựa mấy con vịt tơ đem lại cho các anh lai rai. Nhà anh Năm đây em biết
chớ sao không, đi tới đâu, em cũng coi mặt thổ địa trước chớ...
Nụ cười chị chợt mỏi mê mỏi
nhừ. Có một chút tàn nhẫn, một chút man rợ trong cuộc thương lượng này. Hai
người đàn ông quay vào xóm, không quên vói lại một câu, nửa đe nẹt, nửa xuề
xòa, “tụi tôi nể vợ anh...”. Cha tôi cười hết sức độ lượng, ôi những thằng trẻ
con...
Chị vò đầu thằng Điền, bảo “chuyện
nhỏ thôi mà, đi bắt vịt dùm chị, nhỏ cưng”. Và hướng cái nhìn sâu nhói về phía
cha tôi, rất chậm rãi, chị thay áo, lấy nón, xỏ dép... Thời gian dằng dặc. Tôi
biết chị chờ, hy vọng. Tôi biết, đi một quãng xa, chị vẫn còn dõng tai đợi một
tiếng gọi, “quay lại đi, Sương”. Nhưng chỉ gió ngêu ngao xoi mói vào mảng thịt
sau tà áo người phụ nữ đang xiên xiên trên bờ cỏ rập rờn.
Chị về khi trăng rạng rỡ trên
đầu (mãi sau này, tôi vẫn còn ghê sợ cái màu trăng ấy). Ống quần quệt vào cỏ
ướt đẫm sương. Hơi rượu quyện với mùi thuốc lá làm tôi chạo chực. Nhác thấy hai
chị em tôi ngồi thù lù, chị kêu lên, trời đất, hai cưng chờ chị chi vậy.
"Chị... làm đĩ quen rồi, mấy chuyện này nhằm bà gì mà mấy cưng
buồn?". Rồi khom người nhìn vào chòi, chị chắc lưỡi tấm tắc, "Coi
nè... Trời ơi, bữa nay bộ gió mát sao mà người ta ngủ ngon dễ sợ". Chao,
tiếng ngáy của cha tôi sao mà đều, sao mà thơ thới. Tôi chực khóc, ngay lúc này
đây, dường như chị - đang - chết. Chị lẹ làng lấy tay quệt lên mắt, mảng nước
nhoè nhoẹt bên màng tang, bết cả vào mớ tóc mai.
Sáng sau, gặp ở quây vịt, cha
tôi cười, hơi giễu cợt, "Sao, hồi tối vui không? Chắc họ tưởng cô là vợ
tôi nên hứng thú lắm hả? Cứ để họ nghĩ vậy... ". Chị ngó trân vào cha, rồi
day qua tôi, chị để rớt từng lời:
- Má cưng ác một, nhưng người
cha này của cưng ác tới mười.
Nói rồi, chị quay đi. Chân
vướng dấp dúi vào cỏ. Con đường nhỏ dầm chan trong màu hoa mua tím. Tôi đắng
đót thầm trong lòng một cái vẫy tay. Bóng người khuất trong vườn. Thằng Điền xách
nước về, nó cuồng lên hỏi chị đâu. Tôi chỉ con đường kinh xao xác hoa cỏ dại.
Em tôi chạy hồng hộc về phía đó.
Điền, cũng không trở lại.
Tôi đã chờ nó đến khi mùa mưa
đổ xuống cánh đồng Chia Cắt (tôi tạm gọi vậy) một trời sao. Chờ chơi vậy, chứ
tôi biết Điền chẳng quay về. Tôi nhớ nó (và nhớ chị) không thôi. Những lần dọn
cơm tôi hay lấy chén đũa cho cả bốn người. Cha tôi rất khó chịu, ông ngán ngẩm
đứng dậy. Tôi ngồi một mình, chan nước vào chén cơm như chan nỗi trống trải
khủng khiếp. Đi qua những xóm kinh chộn rộn ánh đèn, tôi thường ngóng lên bờ
mong có thể gặp được thằng Điền và chị. Không biết em tôi có đuổi kịp chị, hay
vẫn tiếp tục kiếm tìm. Không biết nó đã đánh thức được bản năng, đã tìm thấy
nhục cảm, đã biết thèm muốn chưa. Không biết tối nay thằng Điền có được mệt
nhoài úp lên chị, hay vạ vật ở đâu đó, bên vách buồng (hay một tấm ghi-đô bằng
vải), đau vật đau vã nghe hoan lạc chảy thành những dòng rên xiết, kêu thét.
Không biết nước mắt của nó đã khô chưa hay vẫn rỉ từng giọt như máu tươi.
Tôi nhớ Điền, bao gồm nhớ một
đồng - loại (và tôi là đồng - loại còn lại), nhớ một cách trò chuyện (đọc thấu
lòng nhau), nhớ một người nghe được tiếng tim mình (điều này thì con vịt mù làm
được, nhưng nó đã chết rồi), và nhớ một người che chở (công việc này, đáng lẽ
là của cha, má tôi). Tôi biết ơn Điền, từ một gói băng trắng mà Điền mang về
hôm tôi mười bốn tuổi, bảo thứ này dùng khi có kinh nguyệt, nó sẽ ngăn không
vấy máu ra quần. Điền đi hỏi ai đó, nó nói, máu không cầm được cho đến khi nào
tự nó ngưng chảy. Điền xót xa khi thấy tôi trổ mã con gái, "Đẹp làm chi dữ
vậy, Hai? Ở cái xó quê này, có đẹp mai mốt cũng phải lấy chồng, đẻ một bầy con
nheo nhóc, cũng ra ruộng ra vườn làm lụng đến hết đời, xẹp lép như xác ve. Đẹp,
mắc công giữ...". Điền dặn tôi đừng xoắn quần quá cao, đừng mặc áo quá
rộng cổ... Với bọn đám thanh niên lúc nào cũng kiếm cớ lảng vảng, Điền giang
tay bọc lấy tôi, nó giễu cợt, "Anh kia, lượm con mắt lên, anh nhìn vậy,
chị tôi mòn còn gì". Đám người cụt ngòi, tẻn tò dạt ra. Ngay cả khi Điền
bỏ đi cùng chị, nó cũng để lại cho tôi một món quà lớn.
Cha bắt đầu có một chút quan
tâm với tôi. Dường như chỗ trống của thằng Điền nhắc cha nên quý những gì còn
lại. Bắt đầu từ một đêm, cha đứng đằng xa, bảo, "Nương, ngủ sớm đi
!", tôi nghe mắt mình cay, ngợp như ai đó tọng một đám khói vào mặt. Mắc
cười, câu nói chẳng ý nghĩa gì lớn lao, những người cha người mẹ nói với con họ
hàng ngàn lần, đến phát bực mà tôi lại xốn xang.
Tôi ước gì có thể chếnh
choáng thật lâu, nhưng nó mau chóng tắt rụi vì một ý nghĩ kỳ lạ. Dường như
không còn kịp nữa, để hàn gắn sự đổ nát, để sắp xếp những mảnh vỡ lạo xạo trong
lòng.
Chúng tôi tập nhìn nhau, điều
đó khó khăn biết bao. Nhất là với cha, tôi cảm nhận được sự cố gắng lớn. Mỗi
lần ngó về phía tôi, ông phải trợn trạo nuốt nghẹn những cảm xúc, vì tôi giống
má khủng khiếp.
Không cần gương, tôi thấy
hình bóng má trong mắt người đối diện. Trước ánh nhìn của cha, tôi cảm giác
mình soi xuống dòng nước đêm. Với những người đàn ông khác, tôi bị rực lên như
đứng trước mặt trời. Bằng mắt, họ sờ soạng khắp người tôi. Ánh mắt giống bàn
tay của ông xẩm mù mà tôi từng gặp, đụng chỗ nào cũng dừng lại, vuốt vuốt bóp
bóp (chắc là cho dễ hình dung), rồi lần dò tới một chỗ khác, rờ nắn mê miết. Và
tôi đón nhận một cách hằn học, cục cằn.
Hôm bán bầy vịt, cha tôi sắm
một chiếc nhẫn vàng, ông đẩy nó về phía tôi, ngượng ngập như sắp chết giấc,
"Để dành khi đi lấy chồng...". Tôi sặc ra một bụm cười, trời ơi, tôi
biết lấy ai bây giờ ?
Suốt những tháng năm sống tù
đọng trên đồng, tôi có biết ai ngoài những người đàn ông quê mùa cũ kỹ. Tôi
biết lấy ai trong số đó? Lấy một người cắm mặt xuống đất, mệt nhừ với vườn
ruộng để mỗi khi giáp hạt, tôi nghe tiếng cạo cháy của con, tiếng muổng dừa vét
gạo dưới đáy thạp mà rát bỏng trong lòng? Hay tôi sẽ chọn một người chăn vịt,
mê mỏi với chuyến đi xa, sống cuộc sống hờ hững tạm bợ, thấp thỏm với rủi ro,
và đến một lúc nào, tôi ôm con nghe đêm của mùa gặt thật dài với tiếng rúc rích
của chồng cùng cô điếm già nua. Tôi lấy ai bây giờ, một người thợ gặt? Một anh
chạy đò? Ý nghĩ mình là bản sao của má làm tôi sợ. Tôi không chắc mình có đủ
kiên nhẫn sống cuộc sống nghèo túng, nhàm chán ấy suốt đời, hay nửa chừng bỏ dở.
Và bi kịch chất đống lên những người ở lại.
Cha tôi hơi hoảng. Vậy đó,
chỉ cần để ý một chút, là có thể nhận ra, xót xa vì sự quái dị, khác thường của
tôi. Cha tôi vừa kịp nhìn thấy điều ấy, bối rối đến mức không biết diễn tả sự
đau lòng như thế nào, bằng mặt, hay chỉ âm thầm trong lòng. Mà có đau, dường
như cũng trễ...
Cái ý nghĩ đã muộn màng, trễ
tràng, không còn kịp nữa như một cái rốn nước sâu hoáy, điên cuồng hút tôi vào,
cảm thấy mọi nỗ lực của cha trở nên vô nghĩa, tôi nghĩ vậy. Tôi nghĩ đến sự
trừng phạt, sự báo ứng bất chấp trời im ắng như đã nguôi quên chuyện cũ rồi.
Bây giờ, đang vào mùa đẹp nhất trong năm.
PHẦN 8
Bây giờ, gió chướng non xập
xoè trên khắp cánh đồng Bất Tận (tên này tôi tự dưng nghĩ ra). Ven các bờ
ruộng, bông cỏ mực như những đường viền nhỏ liu riu làm dịu lại mảng rực vàng
của lúa. Rất thính nhạy, (như kên kên ngửi được mùi xác chết), đám thợ gặt đánh
hơi kéo đến, những người nuôi vịt chạy đồng lục tục ở đằng sau.
Những cánh đồng trở thành đô
thị; những cánh đồng ngoa ngoắt thay đổi vị của nước, từ ngọt sang mặn chát;
những cánh đồng vắng bóng người, và lúa rày mọc hoang nhớ đau nhớ đớn bàn chân
xưa nghẽn trong bùn quánh giờ đang vất vơ kiếm sống ở thị thành. Những cánh
đồng đó, đã hất hủi cây lúa (và gián tiếp từ chối đàn vịt). Đất dưới chân chúng
tôi bị thu hẹp dần. Nhưng ngay từ đầu, chúng tôi đã tự làm quẩn chân mình, vì
không thể quay lại những cánh đồng cũ (với người quen cũ). Tôi đã từng trở
ngược về những nơi đó theo cách của tôi, bằng mường tượng. Tôi gặp nhiều đứa
trẻ tên Hận, tên Thù mang khuôn mặt rắp tâm của cha tôi, với đôi mắt sâu và
chiếc mũi thẳng. Những đứa trẻ nhàu úa, cộc cằn, cắm cẳn, chỉ tiếng chửi thề là
tươi rói, nhảy ra xoi xói ở đầu môi. Và hình ảnh đó thật đến nỗi, tôi bất giác
lùi lại vì một đứa đang nhìn trân trối vào mình, ngạo nghễ "Tao không
thích học, chừng nào lớn, tao đi chăn vịt. Má tao (hoặc ba tao) dặn, phải đánh
chết tụi chăn vịt kia".
Tôi giễu cợt, không biết mày
có kịp lớn không. Và nó nhăn nhở cười trước khi tan mất vào vũng đêm.
Tôi không mất nhiều thời gian
để hiểu được cái cười ấy.
Đơn giản là ngay bây giờ,
trên cánh đồng này, cũng đang lảng vảng những thằng Hận, chúng lớn hơn, cũng
thất học, hung hãn. Bọn người này cướp vịt ở các bầy khác (trong đó có của
chúng tôi) bằng cách lén phết sơn đen lên đầu những con vịt và phơ phởn đến
nhận chúng là của mình, hiển nhiên mang đi. Bắt đầu xảy ra vài cuộc xô xát trên
đồng, người ta đem hết những bản năng hoang dã của mình ra để giành lại miếng
ăn.
Cha biểu tôi đứng ở đằng xa.
Chờ đợi. Rốt cuộc, bầy vịt của chúng tôi vẫn mất ngót một nửa. Chúng tôi ra về.
Cha tha thểu đằng trước với một thân xác nhừ bùn sau cuộc đánh nhau. Cố đi tụt
lại phía sau, tôi giấu nỗi vui đang thổn thức, cồn cào. Sẽ không ra gì nếu một
đứa gái tỏ ra mừng rỡ khi cha nó bị đánh tả tơi, nhưng rõ ràng là cha tôi đang
thay đổi, đang sống lại những cảm xúc bình thường nhất. Tôi thích ông như thế
này.
Sau này, tôi luôn hối tiếc là
tại sao ngay lúc ấy không chạy đến và cùng sóng bước cùng ông, tại sao tôi
không nhìn ông và mỉm cười. Để khi đám người kia cắt đồng, tôi đã không còn cơ
hội.
Ba người họ ập tới từ phía
sau, quây lấy tôi, quần áo vẫn đẫm bùn, mặt mũi sưng sỉa. Những thằng con trai
hơi ngỡ ngàng, khi nhìn thẳng vào tôi, một đứa gầy gò trạc thằng Điền lau dãi
ròng rãi trên khoé miệng, thảng thốt, "con nhỏ đẹp quá, mày".
Tôi coi đó là lời phán quyết
cho mình. Giọng điệu của hắn giống như đang tấm tắc trước một món hàng đã mắt.
Và món hàng bị ghì ngửa trên
mặt ruộng bì bỏm nước. Tôi ngạc nhiên thấy bầu trời im sẫm. Mênh mông. Không
biết đã tắt nắng hay mặt trời không vói được ánh sáng đến nơi này ? Hay những
khuôn mặt nghèo đói, dốt nát tăm tối đã che khuất nó? Ngoái nhìn về phía cha và
thấy ông lầm lũi đằng xa, tôi mong ông đừng quay mặt lại. Sau đó thử chống cự
một lần, rồi thôi, sự vùng vẫy chỉ kích thích lòng ham muốn. Tôi không muốn bị
đè nghiến, bị vùi nghẽn trong bùn.
Bọn chúng hơi khó chịu trước
một đứa con gái yếu ớt và câm lặng. Sự hưng phấn giảm đi ít nhiều, đến nỗi,
chúng tỏ ra đờ đẫn, nghi hoặc khi bóc trần tôi ra. Sao đúng lúc vầy nè, tôi
buồn nẫu nê, tôi vừa le lói nhìn thấy con đường dẫn đến cuộc - sống - bình -
thường, tôi vừa nghĩ, trên con đường đó, sẽ gặp người con trai nào đó để thương
yêu... Nhưng cố không để cảm giác đau tiếc làm mình lịm vào chết, tôi cười cợt,
“Chúng mày có lột bỏ có trăm có ngàn, tầng tầng lớp lớp những vỏ bọc, cũng
chẳng bao giờ thấu đến tận tao”. Ý nghĩ đó làm tôi bớt nhói cho nông nỗi này.
Vậy thì, cha ơi, quay lại làm
gì, tôi than thầm khi nghe tiếng chân ông nôn nả, giận dữ lỏm thỏm trên mặt
nước. Cha tôi lao vào, gầm gừ nắm cổ một tên bật ngửa ra đằng sau như một người
cố cất cái vó sông nặng nề, đẫm nước. Tôi khóc. Vì thấy ông đã kiệt sức, hoàn
toàn. Và tôi buộc miệng thất thanh: “Điền ! Điền ơi !” trước khi một tên gí đầu
ông dập xuống bùn.
Tiếng gọi ấy làm cha đau đến
sững sờ, ông rướn ngước mặt về phía tôi, miệng há hốc. Tôi chực hiểu, ngay lập
tức hối hận tràn đầy, trong ý thức cầu cứu, một bản năng đơn giản nhất, đứa con
gái đã quên mất người cha.
Thằng Điền thì ở xa. Cánh
đồng vắng ngắt, chấp chới vài cánh cò. Tôi biết rằng, không có cái gì làm cho
cuộc chiếm đoạt này dừng lại. Cha không chấp nhận điều đó. Ông liên tục vùng
vẫy. Một tên côn đồ ối lên một tiếng, bụm lấy mắt, vừa kêu rên vừa chửi bới
ngậu xị. Không đánh trả, nó có cách trừng phạt khác, nó đè nghiến, giữ cho mặt
ông hướng về phía tôi. Và bọn chúng thay phiên nhau, giữ cho cha chỉ một tư thế
đó.
Mắt cha tôi ầng ậc nước, tôi
không rõ là phèn hay máu nhoèn nhoẹt. Thôi nghen, ông trời, như thế này là đủ
rồi, đừng thêm nữa. Ước gì cha tôi hiểu, để mà thanh thản, xưa rày, cái gì không
biết hai chị em cũng đã thử, đó là một cách tự học để sống. Chỉ có sự giao tiếp
giữa thân xác là tôi chưa từng trải qua.
Nhưng lúc này, cảm giác thật
đơn điệu. Đầu tiên là sự xé toạc, và từ rách nát, đau đớn như lũ kiến cánh được
giải thoát, chúng bò rân khắp thân thể, tôi thấy mình đang chết. Rồi ký ức ùa
về kinh hãi, vẻ mặt má tôi cái hôm bị người đàn ông bán vải đo lên người hình
như không phải là khoái lạc thăng hoa, nó giống như tôi bây giờ, đau ràn rụa,
nhói tận chân tóc. Trời ơi, tại sao tôi không nhận ra điều đó, ngay lúc ấy (để
giấu kín nỗi ám ảnh trong lòng, giả đò tươi cười với má, xem như không có
chuyện gì, để chiều chiều cùng má ra sông, hỏi nhau, không biết chừng nào thì
cha về)
... Mặt trời le lói ánh sáng
trở lại khi trên đồng chỉ còn hai thân thể nhàu nhừ. Ai đó vãi từng chùm chim
én lên cao, chúng cố chao liệng để khỏi phải rơi như lá. Người cha cởi cái áo
trên người để đắp lên đứa con gái. Ông ta bò quanh nó, tìm bất cứ cái gì để có
thể che cơ thể nó dưới mặt trời. Dường như đứa con gái đang chết, chỉ đôi mắt
là rưng rức chớp mở không thôi. Câu đầu tiên nó hỏi:
- Không biết con bị có con
không, hả cha ?
Nó hơi sợ hãi. Cảm giác một
cái gì, nhỏ xíu nhưng lanh lợi như con loăng quăng đang ngụp lặn trong nó. Đứa
con gái thoáng nghĩ, rớt nước mắt, trời ơi, có thể mình sẽ sinh con. Nhưng nó
chấp nhận việc ấy, dù phũ phàng (với nó, chấp nhận cũng là một thói quen).
Đứa bé đó, nhất định nó sẽ
đặt tên là Thương, là Nhớ hay Dịu, Xuyến, Hường... Đứa bé không cha nhưng chắc
chắn được đến trường, sẽ tươi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời, vì được mẹ dạy,
là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn. (Hết)
Nguyễn Ngọc Tư
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét