Hoài
trở về phố cũ vào một ngày mưa âm u. Thị trấn huyện lỵ đã rộng lớn hơn nhiều so
với bốn mươi năm trước. Rộng lớn hơn nên ồn ào chợ búa hơn. Và người cũng xa lạ
hơn.
Một mùa học chạy tản cư
nhiều hơn đến lớp. Căn nhà có lầu kiên cố, nhưng cha Hoài vẫn không yên tâm. Ông
cho đào một cái hầm trú ẩn ngay dưới giường ngủ ở phòng giữa, bốn vách chung
quanh tráng xi-măng sạch sẽ. Cái hầm dưới lòng đất rộng đủ cho cả gia đình sáu
người: cha, mẹ kế, và bốn chị em Hoài, cũng rất kiên cố với rất nhiền bao cát
chung quanh miệng hầm. Nhưng ông cũng không yên tâm. Cuối cùng, khi tình hình
quá căng thẳng, cha Hoài đưa cả nhà đến một thành phố lớn tương đối yên ổn hơn
và ông ở lại thị trấn quận lỵ một mình. Hoài khóc, không chịu tản cư, nhất quyết
ở lại với cha. Chỉ có mẹ kế và các em còn nhỏ đi trước. Súng nổ suốt ở những
vùng giao tranh cận kề. Một bầu trời chết
chóc phủ trùm thị trấn quận lỵ. Cây xoài ở góc sân trước sát đường đong đưa
trái. Hoài chẳng buồn hái. Ít người qua lại nên gió thổi cũng buồn thê thiết.
Cây
xoài duy nhất ở góc sân trước đã bị đốn bỏ từ lâu. Kể từ ngày bị một mảnh pháo
làm cụt đầu gãy nhánh năm xưa, nó không lớn nổi nữa. Cũng không cho ra trái nào
nữa. Nó chết từ ấy. Cái sân trống trơ. Căn nhà xưa bây giờ là đại lý một hãng sữa
nổi tiếng. Cô em gái giữa bận rộn bán buôn suốt ngày. Cậu em rể thôi làm thầy
giáo về phụ vợ quản lý cửa hàng sữa và các mặt hàng thực phẩm. Mọi người tất bật.
Hoài lên lầu, đứng thật lâu trước bàn thờ cha, mẹ ruột và mẹ kế. Ba người thân
yêu của Hoài. Ông ở giữa và hai bà hai bên, nhìn Hoài cười nghiêm nghị mà ánh mắt
đầy thương yêu.
Năm ấy hoài đang học năm
cuối cùng bậc trung học đệ nhị cấp, chuẩn bị thi Tú Tài II. Thị trấn 5giờ chiều
đã giới nghiêm. Nhưng ban ngày không giới nghiêm thì cũng tiêu điều xơ xác. Căn
phòng trên lầu của Hoài và đứa em gái kế chỉ còn một mình Hoài đôi lúc vào ban
ngày. Buổi tối Hoài xuống phòng giữa với
cha, lỡ có gì thì còn kịp xuống hầm trú ẩn. Buổi sáng đến trường bữa có bữa
không. Lớp còn chưa tới một phần ba vì bạn bè theo gia đình tản cư gần hết. Các
thấy cô ở Sài Gòn cũng không trở lại dạy. Cuối cùng thì trường cũng đóng cửa vì
chẳng còn thầy trò nào đi học đi dạy. Hoài tự học một mình. Tự chuẩn bị cho kỳ
thi trong tiếng súng nổ ngày đêm. Thật không thể hiểu một cô bé 18 tuổi lúc ấy
là Hoài, lòng dạ nào mà còn học được! Nhưng cuối cùng hai cha con cũng đành ra
đi về thành phố lớn, nơi có mẹ kế và các em đã đến từ gần một tháng trước. Căn
nhà với rất nhiều thực phẩm thuốc men dự trữ được giao lại cho một người bà con
xa đến xin tạm trú, vì nghèo khó không thể tản cư đi bất cứ đâu. Ở lại nhà Hoài
họ còn có cái ăn và có cái hầm trú ẩn kiên cố để tránh bom tránh đạn.
Hoài
đốt ba cây nhang cho cha và hai mẹ. Khói bay vòng vèo nhẹ nhàng lên không. Hoài
nhìn rất lâu bức ảnh của mẹ ruột. Bà mất
khi còn rất trẻ, lúc Hoài ra đời vừa được bảy tháng. Hoài có sáu năm tuổi thơ đầu đời trong khu vườn cây lá xanh tươi
của ông bà ngoại ở một miền quê còn tương đối yên tĩnh. Nhà ngoại của Hoài có đủ
loại cây ăn trái như hầu hết mọi nhà ở miền quê Đông Nam bộ thuở ấy. Nhưng nhiều nhất là
chôm chôm và măng cụt. Hoài nhớ mình thường leo trèo trên các nhánh măng cụt như
con khỉ con. Lần nào về thăm nhà, Hoài cũng đều đi xuống chợ. Mỗi mùa chôm chôm
măng cụt đầy chợ lại nhớ ngoại nhớ quê nhớ má. Mộ má ở quê ngoại, bây giờ cỏ vẫn
một màu xanh biếc.
Tản cư về, Hoài đi học
trở lại những tháng cuối cùng của niên học cuối cùng bậc trung học đệ nhị cấp.
Vẫn những con đường hẹp nhưng yên ả. Vẫn ngôi trường nhỏ rộn ràng các cô nhỏ
trong áo dài trắng phất phới bay trong nắng sớm. Các học sinh nam tề chỉnh quần
xanh đậm áo sơ-mi trắng, nghiêm nghị và nghịch ngợm đều có đủ. Ngôi trường
trung học của quận lỵ nhỏ nhưng xinh xắn và ở vị trí rất đẹp. Cổng chính của
trường nhìn đối diện một ngôi đình cổ, bốn mùa rợp mát bóng cây dầu cổ thụ đã
có từ trăm năm. Trường ở trên con dốc cao, từ dãy phòng học chính nhìn phóng tầm
mắt sẽ thấy dòng sông uốn lượn phía xa, bồng bềnh trong sương mù những ngày trời
lạnh giáp tết. Quê nhà của Hoài nửa núi nửa sông, nửa đồi dốc nửa đồng bằng của
miền Đông Nam bộ, thật không biết phải xếp vào vùng địa lý nào. Hoài đã lớn lên
hiền lành như cây cỏ. Chiến tranh thường trực nhưng Hoài vẫn được sống những tháng
ngày hạnh phúc bên gia đình thầy cô bạn bè. ….
Ngôi
trường bây giờ được xây to hơn rộng hơn và có thêm mấy dãy phòng học mới. Đã biến
mất cái “thung lũng” – phần đất thấp phía dưới với mấy dãy phòng học cũ. Người
ta đã đắp thêm bao nhiều là đất để phần sân trường dưới thấp ấy cao lên và nối
liền với phần sân trên cao. Trường có sân rộng hơn nhưng không còn vẻ lãng mạn
ngày nào với con dốc cao và dòng sông mờ ảo xa xa. Nhưng dãy lầu của năm học cuối
cùng của Hoài vẫn còn. Hoài về thăm trường cũ một ngày đầu hè với cô giáo dạy
triết năm xưa. Cô dạy triết – người đã nặng tình với mái trường thân yêu của
Hoài cho mãi đến bây giờ, bởi trường của Hoài là ngôi trường đầu đời của cô khi
mới bước vào nghề dạy học. Hai thầy trò đứng lặng trong sân trường cũ với biết
bao cảm xúc! Nhìn đâu Hoài cũng thấy người-muôn-năm-cũ! Bốn mươi năm hơn từ
ngày xa trường. Người-xưa đã trôi dạt muôn phương. Người-xưa đã về với đất. Người-xưa
còn ở quanh đây một đời bận rộn áo cơm. Tóc cô bạc trắng. Tóc Hoài cũng đã pha
sương. Những thầy cô mới và những học trò mới nhìn thầy trò cũ với chút lạ lẫm
e dè. Đâu có ai tránh được lẽ vô thường…
Hoài đi tản cư chỉ mang
theo sách vở học thi, bỏ lại một tủ sách với rất nhiều sách và tạp chí văn
chương yêu thích được mua trong nhiều năm nhờ tiền lì xì mỗi dịp tết. Hoài là
con cưng của cha, là cháu cưng của hai bên nội ngoại vì mồ côi mà lại siêng
năng học hành, nên tết nào túi cũng đầy tiền lì xì. Hoài yêu thơ văn và học rất
khá môn này. Với sự khuyến khích của người cậu họ là một nhà thơ và cũng là thầy
dạy của Hoài môn Việt Văn, và sự “đưa đường dẫn lối” của người anh người bạn
hàng xóm, thi thoảng Hoài cũng viết bài gởi đăng ở các trang búp bê và các
trang dành cho tuổi mới lớn của các nhật báo. Hoài không có niềm vui nào khác
ngoài đọc sách và tập tành viết lách. Khi cùng gia đình trở về nhà từ thành phố
lớn sau hơn hai tháng tản cư, Hoài đã sửng người trước tủ sách của riêng mình –
cái tủ sách bằng gỗ cẩm lai mà cha đã đặt ông thợ mộc quen đóng cho Hoài, là phần
thưởng khi Hoài đậu Tú Tài I với thứ hạng cao năm trước. Những quyển sách vẫn
còn nằm ngay ngắn, nhưng thưa thớt. Hoài xem lại. Đã mất một số quyển. Và quan
trọng hơn, khung ảnh nhỏ với bức ảnh của Hoài đã mất chỉ còn trơ lại khung! Bức
ảnh mà mấy đứa bạn thân của Hoài đã khen là “có hồn”: Hoài 16 tuổi, tóc ngang
vai và đôi mắt to tròn mở lớn, nhìn thẳng. Trong cái khung ảnh nhỏ xíu ấy, thay
chỗ bức ảnh của Hoài là một tờ giấy nhỏ gấp làm tư! Hòai mở tờ giấy, mấy giòng
chữ rắn rỏi, có vẻ như viết trong lúc vội vàng: “Cô bé, anh xin lỗi cầm mấy
quyển sách và bức ảnh dễ thương của cô bé mà không xin phép.” Hoài hỏi lại người bà con ở nhờ trong nhà, và biết có một tiểu đội
lính đã đóng quân trên lầu trong thời gian cả nhà Hoài tản cư. Một ngưới lính
nào đó, hẳn là ưa thích văn chương sách vở, hẳn là có đọc ít nhiều trong những
lúc tạm yên tiếng súng. Cảm giác của Hoài thật khó tả. Hơi tội nghiệp. Hơi buồn.
Hơi vui. Hơi tiếc. Hoài không tiếc ảnh và sách với người sống nay chết mai
trong lửa đạn. Nhưng Hoài tiếc những dòng đề tặng và chữ ký của người bạn-lớn của
Hoài, tác giả của hai trong số mấy quyển sách bị người lính ấy mang đi.
Đôi
khi nghĩ ngợi vẩn vơ, Hoài có nhớ đến người lính năm xưa. Nhớ gì mà không biết
mặt cũng nhớ! Thực ra chỉ là một hình bóng mơ hồ trong tâm tưởng. Không biết
ông ấy còn giữ cái ảnh thuở 16 tuổi của một cô bé không hề quen biết là Hoài
không? Không biết ông ấy còn sống hay đã chết trong biệt mù bom đạn? Nếu còn sống,
tóc ông ấy giờ chắc cũng đã trắng như sương? Còn có khi nào được gặp? Và những
quyển sách của Hoài… Đã gần bốn mươi năm, Hoài không ngó ngàng gì đến niềm vui
làm thơ viết văn thời son trẻ. Cơm áo gạo tiền và những nỗi đau nỗi tuyệt vọng
sau một biến cố tang thương đã làm Hoài gần như “khép chặt cửa lòng” với niềm
vui cũ. Cho đến một ngày gặp lại bạn-lớn năm xưa… Hoài rụt rè trở lại với văn
chương. Đã thấy lòng mình xúc cảm trước những tập sách được viết bằng cảm xúc
thực sự, không phải những kiểu tô hồng hay bôi đen. Những tựa sách mới của bạn-lớn,
giờ đây Hoài muốn có mấy quyển cũng được, nhưng vẫn nhớ vô cùng những tập truyện
cũ đã mất. Dù sao, Hoài vẫn tin một cách mãnh liệt rằng, một người yêu sách yêu
văn chương như người lính năm ấy, vẫn trân trọng giữ gìn giùm Hoài chứng tích của
những-mùa-trăng-có-nhau trong đời Hoài một thuở.
Sài Gòn, 23.05.2013
Ngọc Bút
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét