Vợ chồng nhà văn Trương Văn Dân và Elena Pucillo Truong
(Nguyên tác : Il passato sotto la neve )
Bản dịch của Trương Văn Dân
Bước đi mà mắt tôi cứ
liên tục nhìn những cửa hàng và khuôn mặt của những người gặp trên đường phố. Ánh
đèn màu rực rỡ của mùa Giáng Sinh phản chiếu trên mặt đường nhựa và trên những
vũng nước đọng lại sau cơn mưa. Tôi cô đơn, và trầm cảm. Nghĩ lại cuộc đời mình,
tôi những muốn đánh đổi với cuộc đời của bất kỳ người nào mà tôi gặp: Dẫu đời họ
có xảy ra bất cứ điều gì, tôi vẫn tin là họ vẫn hạnh phúc hơn những gì mà tôi đã
và đang sống.
Sau 18 giờ bay tôi đã đến thành phố Milano vào sáng sớm, và trong suốt hành
trình tôi đã không chợp mắt. Thông thường trong các chuyến bay xa tôi rất thích
xem phim, bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp, rồi sau đó cố gắng ngủ vài tiếng đồng
hồ. Thế nhưng lần này tôi chỉ ngồi yên, nhìn cái màn hình không bật, tối đen,
và không muốn làm điều gì khác. Có quá nhiều ý nghĩ ập đến trong đầu tôi. Bao
nhiêu kỷ niệm cũ xưa đang tràn đến, và trong trí nhớ còn nhiều thứ đang làm tôi
buồn khổ đến bây giờ.
Lúc máy bay hạ cánh trời hãy còn tối lắm, ngoài trời chỉ có một chút ánh sáng lờ mờ và gần như chẳng có
người nào ở sân bay. Tôi đến băng chuyền nhận hành lý và bước ra ngoài, đụng ngay với cái lạnh âm năm
độ của mùa đông đang chờ ở ngoài trời. Hơi thở của tôi biến thành hơi nước và
làm mờ mắt kính lúc tôi nhìn quanh quất để tìm một chiếc taxi đưa tôi về thành
phố. Với những ngón tay lạnh giá tôi khó nhọc mới mở được cửa xe.
- Thưa ông về
đâu ạ?
- Ông làm ơn chở
tôi đến Hotel Michelangelo, gần nhà ga trung tâm.
Gã tài xế còn đang ngái ngủ nên chỉ lái xe mà chắng nói gì, và dường như
tôi cũng thích thú về sự im lặng này trong khi chiếc xe bon bon tiến về thành
phố. Đó là thành phố của tôi, nơi tôi từng sống và có một căn nhà. Tuy vậy tôi
chẳng có ý định về nhà. Mười năm rồi, kể từ lúc tôi rời bỏ thành phố này, đáng
lý phải nhớ lắm... nhưng tôi đã xóa bỏ nó... hay ít ra cũng cố quên là mình đã
từng có một mái nhà.
Đến khách sạn, tôi chỉ muốn được tắm
nước nóng và nghỉ ngơi. Uống một viên melatonine để ổn định đồng hồ sinh học, trên
người vẫn còn mặc áo choàng tắm tôi buông mình xuống giường. Sau vài giờ đồng hồ
thiếp ngủ trong không khí ấm áp của căn phòng khách sạn, tôi cảm thấy khoẻ hơn.
Hơi đói bụng, tôi ra ngoài để tìm mua một mẩu bánh mì và một tách cà phê. Trên
đường phố có nhiều quầy hàng, trên đó chưng bày đủ thứ bánh ngọt, thịt xúc xích, đồ chơi cho trẻ em và các vật liệu trang
trí cho mùa Giáng Sinh.
Hai tay đút trong túi quần, tôi đi bộ ngoài đường và cảm thấy thích khi gió
lành lạnh lướt nhẹ trên mặt, lòng vui vui nhìn những bông tuyết lác đác rơi từ
bầu trời xám xịt trên cao. Tôi rất thích tuyết. Không gian im lặng và toàn một
màu trắng phủ lên thành phố thường cho tôi một cảm giác tinh khôi. Không khí
trong lành hơn và vạn vật như mang một hình thái khác, không dễ định hình. Tôi
bỗng nhớ đến một mùa Giáng Sinh của nhiều năm trước, lúc đó tôi chỉ vừa ba, bốn
tuổi. Tối đó ba tôi về nhà rất trễ, những bông tuyết bám đầy trên vai áo khoác
của ông, nhưng trên tay ông có cầm một gói quà thật lớn.
Gần như không kịp cởi áo, ông bảo tôi và người anh trai lớn hơn vài tuổi
cùng tháo lớp giấy bao quanh rồi mở chiếc hộp có đựng món quà không mong đợi. Đó
là một chiếc xe lửa chạy bằng pile và ngay lập tức chúng tôi ráp nối các đường
ray, bỏ pile cho xe lửa vận hành... Lúc đó
mẹ tôi không chia sẻ ý tưởng này, ngược lại... bao lần rồi cả nhà đợi ba về để
ăn tối, bao nhiêu lần chờ đợi trong vô vọng. Rồi lúc ông về chẳng ai chịu ngồi
vào bàn ăn. Ba tôi luôn về trễ, tôi không biết vì lý do công việc hay vì chuyện
gì khác, nhưng cũng có thể là ông muốn thế... Ông không bao giờ quan tâm đến
gia đình... thế nhưng mùa Giáng Sinh năm ấy ông lại trở về nhà với món quà mà không
ai dám mơ. Và như nhiều lần trước, bỗng dưng, tôi như nghe lại tiếng ba mẹ cãi
vã, tiếng hét và tiếng điã chén va xuống đất, chìm lấp trong những tiếng chửi
thề và cánh cửa bị dập mạnh. Sau đó là sự yên lặng, nặng nề, chỉ bị ngắt quãng
bởi tiếng khóc của mẹ và tiếng nức nở của tôi trong lúc anh tôi đang cố ráp những
mảnh tàu móp méo từ cơn giận của ba.
Tôi quệt bàn tay giá lạnh lên mắt tựa như để xoá bỏ hình ảnh xa xưa đó. Tôi cần phải gọi
điện, báo cho anh tôi biết là tôi đã đến nhưng hình như trời hãy còn quá sớm.
Tôi muốn có một ít thời gian để biết mình đang ở đâu và cần phải làm gì. Mười
năm trước tôi đã ra đi sau cái chết của mẹ, một cuộc đời đau khổ rồi ra đi
trong ít phút. Có lẽ do chìm trong ưu tư nên khi băng qua đường mẹ không nhận
biết là có một chiếc xe camion đang chạy qua. Nhưng biết đâu đó cũng chính là
toan tính của mẹ từ nhiều năm trước... Tuy nhiên đó cũng là một điều tốt cho bà
vì khỏi phải thấy những gì ba tôi đã làm về sau: Một người đàn bà khác trong
căn nhà cũ, những kỷ niệm của mẹ bị vứt đi, và tất cả số tiền tiết kiệm và dành
dụm của bà bị mất trọn trong những cuộc đỏ đen hay nộp cho những người đàn bà trắc
nết. Tôi còn nhớ mình và anh trai bị đuổi ra khỏi nhà, vì bị xem là một thứ của
nợ: Tôi được một bà dì ở Roma nhận về nuôi còn anh trai thì về nhà một ông bác ở
tận thành phố Como... Chúng tôi lớn lên như thế, luôn biết vâng lời và đôi mắt u
buồn; còn ba tôi, một gã thiếu-niên mãi-mãi-chẳng-trưởng-thành, mang trong tim
sự tàn ác và bản năng của loài ác thú, chúng tôi chẳng biết tin gì.
Lớn lên, chúng tôi có những cuộc đời khác nhau. Anh trai tôi tình nguyện tham gia vào một tổ chức nhân đạo ở Phi Châu còn
tôi thì tìm được việc làm như một kỹ sư dầu khí, làm việc trên giàn khoan dầu hỏa
ở vùng Đông Nam Á. Chúng tôi đã không liên lạc với nhau trong một khoảng thời
gian khá lâu. Có thể rất khó giải thích mà chỉ với ý nghĩ nói chuyện với anh
thường làm lòng tôi quặn thắt... Rồi vài ngày trước, anh chủ động gọi tôi qua điện
thoại di động, sau vài lời thăm hỏi đại loại “Em khoẻ không?” mặc dù thừa biết
là tôi cũng đau đớn như anh. Anh báo cho tôi hay là ba chúng tôi đã không còn nữa,
bệnh ung thư đã cướp mất ông. Cả đời ông chưa bao giờ chấp nhận làm một người
bình thường, thế mà ông đã chết vất vưởng ngoài đường phố, trong sự lạnh nhạt,
dưới cái nhìn vô cảm của khách bộ hành. Ngay cả mụ đàn bà trắc nết vừa quen, cũng
đã thừa cơ lấy sạch số tiền trong bóp của ông trong khi ông đang giãy chết. Sau
đó bà mới báo tin cho anh tôi và anh ấy
liền gọi điện cho tôi. Đây chính là lý do mà tôi trở lại thành phố này, dù lúc
đầu tôi hoàn toàn không muốn.Vô ích, tất cả đều vô ích. Về làm gì để dự đám
tang của một người mà chỉ thỉnh thoảng mới nhớ mình là một người cha?
Nhưng sau đó thì tôi đổi ý.Tôi lấy chuyến bay
đầu tiên có thể và về đây, dù chưa chắc lắm về điều mình đang làm. Trời lạnh
quá! Thỉnh thoảng tôi rùng mình vì rét nhưng cuối cùng cũng tìm thấy quán cà
phê nên vội vã bước vào. Không khí bên trong thật ấm cúng và có nhiều trang trí
về Giáng Sinh toàn màu đỏ và màu vàng. Không gian còn có tiếng nhạc nhẹ và tiếng
chuông nhà thờ càng làm cho không khí thêm vui và thư giãn. Tôi còn ngửi thấy
mùi nhựa của những cành thông treo trên tường, viền quanh bức tường hình cánh
cung trên trần nhà và ở một góc phòng còn phát ra tiếng tí tách của củi đang
cháy trong lò sưởi. Tôi gọi một tách cà phê với một bánh sandwich và trong lúc
chờ đợi, tiến đến gần lò sưởi để hơ nóng hai bàn tay. Lát sau tôi đút tay vào
túi quần và cầm lấy chiếc điện thoại đang nằm trong túi. Giờ này chắc anh tôi
cũng đã đến rồi. Tôi bấm số và chờ nghe tiếng chuông từ phía bên kia.
- Chào, em đã đến rồi chứ? Em khoẻ
không?
- Dạ đến rồi! Em đang ở khách sạn Michelangelo. Còn anh, khoẻ chứ?
Giọng tôi run
run và sau đó chỉ mơ hồ nghe giọng anh
nói với tôi:
- Chờ anh ở khách sạn. Anh cũng ở gần
đó. Mình gặp nhau sau chừng mười phút nhé!
Tôi cảm thấy như mình vừa biến thành một đứa bé, khi có anh bên cạnh để che
chở, nhớ những lúc anh xen vào giữa để bảo vệ tôi từ những cú quật của ba. Có lẽ
lúc này tôi bắt đầu hiểu tại sao mình muốn trở về, để tìm lại một lần nữa chút
tình cảm thuở lớn lên trong một gia đình hoàn toàn không giống với những gia
đình khác. Tôi uống một ngụm cà phê và
không thể nào ăn hết chiếc bánh sandwich rồi vội vã tính tiền, rảo bước về hướng
khách sạn. Tuyết vẫn còn rơi và tất cả những âm thanh xô bồ như bị dập tắt và
nhấn chìm trong màn trời trắng xoá.Tôi đi như chạy về khách sạn và cuối cùng
nhìn thấy anh tôi cũng đang từ xa đi lại. Chúng tôi ôm nhau... không nói lời
nào mà mắt cả hai đều đầy nước mắt, giờ này thì chúng tôi đã là hai gã đàn ông,
tóc ít nhiều đã bạc theo năm tháng cùng với niềm đau. Cả hai cùng bước vào sảnh
của khách sạn và tìm một chỗ ngồi ở quầy bar.
- Tóc anh bạc nhiều mà em vẫn nhận ra
ngay.
- Còn em cũng
đâu còn là một chàng trai nhỏ bé nữa. Anh nói. “Vào mùa Giáng Sinh mà màu da của
chúng mình ướm nắng thế này, chắc sẽ làm bao người ganh tị.”
Tôi bật cười, nghĩ đến những ngày cô
đơn của mình trên giàn khoan, dưới ánh nắng gay gắt giữa đại dương. Tính tôi
không thích những chỗ đông người và có lẽ đó là lý do mà tôi thích sống ở đó, suốt
ngày có thể tự do nhìn ngắm đường chân trời và nhìn những đàn chim biển bay lượn
trên cao.
- Đáng lý anh
đã phải gọi em sớm hơn nhưng anh không làm được! Giờ thì anh nhận ra là anh thấy
thiếu em. Có lẽ anh chỉ sống ở Phi Châu vài tháng nữa rồi sau đó sẽ quay về Ý.
Còn em thì sao?
- Em cũng vậy. Nhiều
lúc em cũng rất nhớ anh! Bây giờ thì công việc và mọi thứ đều ổn. Có lẽ em phải
về làm việc chừng sáu, bảy tháng nữa rồi cũng sẽ dời về Brasile trong một dự án
khai thác mới. Còn đám tang? Ngày mai phải không anh?
- Đúng, 9 giờ
sáng mai! Tất cả mọi thứ đều đã chuẩn bị
xong. Em đừng bận tâm. Và vừa nói anh vừa siết chặt tay tôi, rồi sau một lúc ngập
ngừng, anh nói thêm: “Em có muốn về nhà... để nhìn thấy ba không?”
Tôi lắc đầu. Không, tôi không thể. “Em van anh, đừng yêu cầu em chuyện
này”. Tôi nhìn thấy hình ảnh một người đàn ông giận dữ đang lao vào phòng mình
và chẳng cần một lý do nào, ông la hét, rồi túm áo tôi kéo ra khỏi giường trong
lúc tôi đang ngái ngủ, rồi bắt đầu mắng chửi, đánh đập, trong khi tôi nhận nhiều
cú đấm mà chẳng hiểu vì sao. Bỗng dưng tôi thấy mình nghẹt thở như thuở ấy,
trong lúc hỗn loạn đang tìm cách trốn thoát khỏi bốn bức tường giam hãm, dường
như chỉ xây lên để nhốt tôi và ông ta. Tôi tiếp tục không trả lời anh. Không!
Tôi không thể!
- Giờ thì dù
sao ổng cũng mất rồi. Anh tôi nói tiếp. Anh biết, đây không phải là một điều dễ
dàng, nhưng dù sao chúng mình cũng đã làm lại được cuộc đời. Còn ba, ổng chỉ có
thể mỗi ngày mỗi huỷ hoại đời mình.
Cuối cùng tôi đồng
ý, nhưng tâm thần tôi vẫn còn bấn loạn và mệt mỏi.
- Thôi được! Mình đi ngay đi! Rồi lát nữa
quay lại khách sạn để ăn một chút gì.
Anh nắm cánh tay tôi và cả hai cùng bước ra
ngoài.
- Kìa, taxi đây rồi!
Mặc dù đèn đường chiếu sáng lờ mờ nhưng gã tài xế cũng nhìn thấy chúng tôi
và chạy đến. Chúng tôi bước vào trong xe ấm áp, ngồi cạnh nhau ở băng sau. Chỉ
sau vài phút chúng tôi đã đến trước chiếc cổng nặng nề mà trước đây là căn nhà
của chúng tôi. Anh tôi trả tiền cuốc xe rồi chúng tôi bước xuống. Anh lục trong
túi tìm chìa khoá để mở cổng. Chúng tôi bước vào sảnh và tiến đến chiếc thang
máy, tôi cúi đầu theo anh, như thể mắt không thể rời khỏi sàn nhà. Tầng ba.
Chúng tôi bước ra và trong khi anh tôi mở ổ khoá để vào căn hộ, trong đầu tôi nảy
lên ý muốn trốn chạy khỏi nơi này. Tôi hít một hơi dài và cố gắng tự trấn tĩnh.
Cửa đã mở và anh đang nhìn tôi. Chúng tôi cùng yên lặng vào nhà.
Tất cả dường như đều đã ố vàng, cũ kỹ. Tôi nghe có mùi ẩm mốc, không khí tù
túng như đã rất lâu các phòng ốc bị đóng kín không cho ánh sáng và không khí
trong sạch tràn vào. Tất cả như bị bỏ hoang. Ở cuối lối vào, tôi nhìn thấy
phòng khách và ở bên phải là phòng ngủ. Cửa khép hờ.
Bên cạnh giường ngủ người ta có đặt một chiếc quan tài trong đó có thể xác
của ba tôi. Tôi khó nhọc tiến đến và
nhìn thấy ông.
Sự can đảm như đột ngột tràn đến. Ai đây? Tôi như không hề biết người đàn
ông này. Ông hoàn toàn không còn là những gì mà tôi đã từng nghĩ về ông. Ông nằm
đó. Bất động. Chỉ còn da bọc xương, mí mắt sụp xuống, đóng lại hai hốc lõm xưa
là đôi mắt và đôi môi tái nhợt hơi hé mở. Trên người ông có mặc một chiếc sơ mi
có cổ áo rất rộng.
Gần như đọc được ý nghĩ của tôi, anh tôi nói:
- Anh vừa mua một
chiếc sơ mi mới, anh còn nhớ số đo của ba nhưng bây giờ thì nó quá lớn với ông.
Tôi muốn có được
một chút xót thương cho người đàn ông xa lạ này. Thế nhưng tôi chỉ cảm thấy xót
thương chính mình, hằng đêm bị rượt đuổi bởi những bóng ma, tuy chỉ là kỷ niệm
nhưng cũng đủ huỷ hoại cuộc đời tôi.
- Anh đừng bận tâm! Anh đã làm quá nhiều cho ba rồi!
Chúng tôi đi một vòng trong căn nhà trống hoắc, dường như không còn vật dụng
hay bàn tủ gì như chúng tôi còn nhớ. Thế nhưng khi bước vào gian bếp, tôi như vừa
thấy mẹ mình đang lấy ra một món ăn thơm phức từ hoả lò. Nhắm mắt, tôi như nghe
mùi thơm đang lan toả khắp nhà, nhớ những lúc cả nhà quây quần ăn uống trong những
ngày chủ nhật. Một thoáng thôi. Khi mở mắt tôi không nhìn thấy gì cả. Chỉ vài
phút rồi chúng tôi đóng cửa và bước xuống đường. Bây giờ chúng tôi trao đổi với
nhau, thoả thuận về các việc cần làm rồi cả hai, mệt đừ, ai về khách sạn của
người ấy.
Chúng tôi ở bên nhau ba ngày, lúc đưa tang ba tôi chẳng có ai khác ngoài
hai chúng tôi. Thê thảm như cuộc đời của ông ấy.
Thế rồi cũng đến lúc chia tay.
Anh trai tiễn tôi ra sân bay.Tôi làm thủ tục bay và chúng tôi cùng chờ khoảng
mười lăm phút trước khi vào phòng đợi.
- Anh rất vui mừng
được gặp lại em, anh nói, biết đâu một ngày nào đó anh cũng sẽ đến tìm em bên
đó. Nhớ gọi điện cho anh khi em đến nơi. Và nhớ gọi chúc mùng Giáng Sinh nữa!
- Chắc chắn rồi! Em cũng rất vui được gặp
lại anh! Chúng ta sẽ còn nhiều dịp gặp nhau nữa.
- Chúc em thượng lộ bình an. Cố gắng ngủ trên
máy bay nhé. Tôi nhìn thấy anh lưỡng lự một lúc rồi rút từ trong túi áo khoác
ra một vật gì. “Đây là món quà nhỏ cho em. Chúc Mừng Giáng Sinh!”
Tôi nhìn gói quà. Bỗng
thấy mình đãng trí vì không mua chút quà để tặng lại anh. Tôi mở ra. Và giữa những
dòng nước mắt, tôi nhìn thấy chiếc đầu máy xe lửa chạy bằng pile của những năm tháng cũ.
Sài Gòn 11-2012
Elena Pucillo Truong
(Trương Văn Dân dịch)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét