Sài Gòn với môi trường xanh biếc, hào phóng nêu trên sẽ tạo khí hậu tươi mát và vùng
đất phì nhiêu cho những mầm non mang nghiệp văn chương.
Nguyễn Tôn Nhan viết về thuở ấy:
“Triệu Từ Truyền và tôi là bạn với nhau từ những năm của thập niên 60 thế kỷ trước, khi ấy chúng tôi còn là những thiếu niên 15, 16 tuổi vừa mới bị “trúng bùa” của văn chương thi ca.
Thời trẻ dại ấy ở miền Nam Việt Nam (hay có lẽ ở bất cứ một miền cõi nào có bụi cát trên thế giới loài người) đẹp một cách kỳ lạ. Tôi vừa nhắc đến chữ “bụi cát”. Vâng, chính bụi cát của những chuyến xe buýt về muộn dọc đường Sài Gòn -
Gia Định đã làm dấy lên biết bao tư duy ngôn ngữ không có thật (hoặc có thật cũng chẳng sao) của vũ trụ Lão Trang, Khổng, Phật trong những tấm thân non nớt đang sẵn sàng run lên lẩy bẩy dưới mấy tàng cây keo, hay một loại cây gì đó mọc bên đường Nguyễn Văn Học (nay là Nơ Trang Long) và Chi Lăng (Phan
Đăng Lưu). Ồ, nhựa loài cây ấy thơm quá, hình như nó có ẩn cả mùi thi ca của các lãng tử thi nhân như Rimbaud, A.M.Rilke ở trời Tây phương mắt xanh nào đó. Tôi và cả Triệu Từ Truyền rung lên bần bật. Đâu còn con đường nào nữa, chúng tôi làm thơ. (Đoạn ngắn về thời gian Đêm lên cơn dài- Ngu Cốc cuối tháng một, năm Sửu 2009 )”
Lúc ấy tôi ký bút danh Triệu Cung Tinh, bạn tôi còn dùng tên Trần Hồng Nhan với tâm thức tự mình hấp thu hết bao truân chuyên, bi đát của “thuở trời đất nổi cơn gió bụi”, song đánh dấu bước trưởng thành Nhan
đã lấy lại họ thật của mình và bút danh được viết lại Nguyễn Tôn Nhan ngay sau đó ít lâu. (hơn 30 năm sau má tôi trên giường bệnh vẫn còn hỏi tôi “Nhan đâu sao không ghé
chơi?”). Có lẽ vì mang bùa văn học như Nhan đã viết nên tình bạn của chúng tôi không bị ô nhiễm thái độ chính trị hoặc tín ngưỡng.
Nhiều năm, ngày nào chúng tôi cũng gặp nhau, thậm chí sáng uống cà phê ở La Pagode quận I Sài Gòn, chiều về Bà Chiểu Gia Định dùng cơm ở nhà mẹ hay nhà má. Luôn bàn chuyện thơ văn, đôi khi trộn vào triết học. Nhan ngày ấy ít nói hơn các bạn khác, thường thường tôi và ai
đó nói nhiều hơn. Các bạn cầm bút của tôi chưa bao giờ có một lời cản ngăn tôi tham gia cách mạng. Chúng tôi thân nhau đúng
vào thời kỳ đầy xáo trộn, nội các liên tiếp lên xuống, biểu tình liên miên, hai tôn giáo lớn có lúc đối đầu bằng gậy gộc, quân đội Mỹ đổ bộ, quân giải phóng bám sát ven đô… Không
hiểu sao trong tôi chưa bao giờ xung khắc giữa đam mê văn học và hoạt động cách mạng. Sáng, bàn với Nhan và các bạn khác về việc in tập thơ, trưa và chiều tôi cầm đầu xuống đường đụng độ ác liệt với cảnh sát dã chiến.
Tôi còn nhớ rất rõ, năm 1965 dù tên tôi bị đọc trên đài phát thanh theo lệnh truy nã của nội các chiến tranh vì tôi ký tên đề nghị Nhà cầm quyền Sài gòn thương lượng với Mặt trận dân tộc giải phóng, Nhan vẫn tìm gặp tôi ở một thiền viện vùng Cây Quéo, Gò Vấp (Quận Bình Thạnh) ngày ấy vùng này còn vườn cây um tùm,
rậm rạp như cánh rừng thưa. Chúng tôi trao đổi về xuất bản tập thơ Đêm lên cơn dài của Triệu Cung Tinh và tuyên ngôn của Bộ Lạc Mới, do tôi dự thảo trước để vài tháng sau sẽ in trên báo văn học Bộ Lạc Mới, với dòng chữ ngay dưới tên báo:
văn học của vùng người xanh biếc - số đắp nền.
Đối với Nhan có lẽ nhân tính của con người bộc lộ trong văn chương, chứ không phải qua hành vi chính trị hay nghi lễ tôn giáo, nên Nhan không quan tâm hoạt động khác của tôi. Xin phép Nhan, buộc lòng mình phải kể việc này để độc giả hiểu ra thái độ trung dung ấy của người bạn mà không ai bù đắp nổi cho tôi, nếu phải vĩnh viễn xa nhau. Có lần Nhan kể với mình bố theo đạo Phật (thuộc dòng dõi Nho gia nổi tiếng ở Hải Dương, ông nội và bác ruột đều đỗ đạt dưới triều Nguyễn). Mẹ là con chiên của đạo Thiên Chúa, tần tảo nuôi các con, một người mẹ rất mẫu mực. Nhiều lần mẹ thuê nhà chỗ khác để được thờ kính Chúa trang trọng nhất, vì ở ngôi nhà của cả gia đình, bàn thờ đã có Đức Phật do bố thờ cúng. Phải chăng Nhan đồng thuận với R.Tagore, thơ là tôn giáo của tôi?
Thời gian này tôi thường dùng cơm với gia đình bố mẹ Nhan, Nhan hay nhắc mẹ cho vài lát chanh, vì Nhan biêt tôi trong bữa ăn rất thích vị chua. Ba mươi năm sau,
Nhan cũng nhắc chị Quỳnh Hương (phu nhân Nguyễn Tôn Nhan) như thế.
Vào khoảng năm 1990, Mịch La Phong có lần nói với tôi: “Nhan rất thương Truyền, nó dặn tôi khi gặp Truyền nói năng phải nhẹ nhàng vì Truyền bạn chí thân của tôi nhạy cảm, tâm hồn mịn màng, tế nhị, không nên bạo quá!”. Nhan đã xử sự với người bạn như vậy, mà người bạn ấy đã có lúc sống chết với một học thuyết chính trị mà Nhan nhận thấy còn khiếm khuyết.
Năm 1991, Nhan viết đầy ưu ái: “Triệu Cung Tinh sớm có những hoạt động cách mạng từ những ngày còn học Trung học. Anh luôn băn khoăn về số phận của đất nước lúc ấy đầy tràn những bóng lính Mỹ. Có lẽ từ lòng yêu thơ, yêu cái đẹp mà càng ngày Triệu Cung Tinh càng tiến đến gần cách mạng giải phóng dân tộc chăng? (chút kỷ niệm thơ với Triệu Cung Tinh - Sài gòn 7/1991).
Vì nhớ và thương bạn mà Nhan đã bất chấp nguy hiểm, giấu tờ tuần báo Nghệ Thuật (chủ bút Mai Thảo - thư ký tòa soạn Viên Linh) vào giỏ tiếp tế thức ăn của gia đình gửi vào khám Chí Hòa cho tôi. Tôi mở báo đọc lướt thật sung sướng thấy dòng chữ viết tay của Nhan “Bộ Lạc Mới số dựng lều sẽ in, Thánh Ca đã xuất bản”, đấy là món quà vô giá của tôi ở tuổi 20 (1967), lúc đang bị tù với tội danh phá rối cuộc trị an.
Tháng 5 năm 1969, tôi được các bên ở Hội đàm Paris can thiệp để trả tự do vì bị bại liệt ở chuồng cọp Côn Đảo. Về lại khu vực Thành Gia Định, Nhan đến thăm tôi thường xuyên ở nhiều nơi khác nhau, vì tôi vẫn hoạt động bí mật. Vào một buổi học sáng, Nhan chở tôi bằng Honda đến Hội Việt Mỹ (trường học tiếng Anh) ở đường Mạc Đĩnh Chi để “coi mắt” một cô gái Huế, cô gái xinh đẹp, đài các ấy sau này chính là phu nhân của Nguyễn Tôn Nhan.
Những ký ức không phai của chúng tôi không thể nào kể hết được. Thương quý nhau
vì tâm huyết với văn chương, cảm thông nhau vì cùng một lứa gian nan trong chinh chiến, hơn nữa trong sâu thẳm tâm thức của chúng tôi biết rằng mình thuộc về tâm hồn Việt Nam, tính linh Việt Nam nên dù có bao nhiêu tác động ngọai lai, mê hoặc đến đâu, khoa học đến đâu, duy lý đến đâu cũng không phá vỡ nổi tâm thức Việt Nam, trở thành bản năng gốc trong chúng tôi.
“Một hôm tôi đang ngồi trong tòa soạn tờ Diễn Đàn ở đường Nguyễn An Ninh với Đặng Tấn Tới thì Triệu Cung Tinh lù lù lên thang lầu. Người anh gầy hơn khi còn ở Sài Gòn, anh rủ tôi ra La Pagode uống càphê. Lúc ấy tôi đang trong tình trạng bất hợp lệ quân dịch và cũng biết rất rõ anh vừa ở “trong Bưng ra” nhưng vì tình bạn, tôi vui vẻ theo anh lang thang trên các nẻo phố Sài Gòn. Chúng tôi bàn với nhau về văn chương, về cả viễn ảnh hòa bình tương lai của đất nước (là điều tôi chỉ có một ý niệm rất mơ hồ). Năm ấy đặc san mùa xuân “Sinh Viên” (của Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn) có nhờ tôi lấy bài giúp và tôi đề nghị luôn anh viết truyện ngắn. Cái truyện ấy tôi đã đăng và đến bây giờ tôi còn nhớ tựa của nó “Nhánh tay xanh” (Chút kỷ niệm thơ với Triệu Cung Tinh -1991)
Không phải chỉ có thế, Nhan giữ nhiều bài thơ của tôi trước khi tôi bị lưu đày, và lần lượt cho đăng trên các tờ báo văn nghệ trong suốt những năm tôi bị giam cầm. Phải chăng chúng tôi xứng đáng được gọi là bạn chí thân, tâm giao, tri âm,
tri kỷ của nhau?
Từ năm 1971 đến 1975, chúng tôi lại phải xa nhau, vì tôi bị lưu đày Côn Đảo lần thứ hai. Nhan viết: “Tôi vẫn tiếc sao anh không ở lại Sài Gòn để cùng làm văn nghệ với chúng tôi, mặc dù có thể lý tưởng giải phóng đất nước của anh là chính đáng. Sau đó là thời gian liên tiếp anh bị giải từ nhà tù này đến nhà tù khác, tôi chỉ còn biết thỉnh thoảng ghé thăm người mẹ già của anh (khi anh ở tù thân phụ anh đã qua đời) và an ủi bà những câu có lẽ cũng trở thành vô nghĩa. Chúng tôi xa
nhau đến ngày 30.4.1975. Trung ơi, chúng ta đã có với nhau quá nhiều kỷ nịệm. Từ thuở 20, đến nay đứa nào cũng trên 40 cả rồi nhưng sao tôi thấy tôi vẫn trẻ dại như ngày nào, và những mộng ước thơ ca của tôi vẫn còn tươi rói. Nó sẽ còn tươi rói đến bao giờ? (Chút kỷ niệm thơ với Triệu Cung Tinh -1991)).
Đúng như Nhan nói, ngày đầu tháng 5/1975 từ bưng biền tôi về thăm má và các em rồi đi ngay qua nhà Nhan, vừa nhớ bạn vừa lo bạn gặp rắc rối vì những ngày ấy, tôi lại gặp Nguyễn Đức Sơn đang đọc sách và ăn cơm ở đó. Trước và sau
1975, từ Đất Đứng (1965), Bộ Lạc Mới (1966) cho đến Bông Trang (1990) và Gieo & Mở (1995),… Nhan luôn là người sát cánh
cùng tôi để thực hiện những tờ báo văn chương ấy. Cho đến nay đã tập họp trên 200 bài thơ lục bát ba câu của Nguyễn Tôn Nhan, một thể cách súc tích, cô đọng nhất của thơ. Tôi còn nhớ trước hai tập thơ Thánh ca (1967) và Lục bát ba câu, Nhan có in
chung với một người khác (con trai của một chủ Nhà Sách) trong một tập thơ, rất tiếc tôi không nhớ tên người đồng tác giả với Trần Hồng Nhan và cả tên tập thơ. Cùng với những bài thơ trước đó, Nguyễn Tôn Nhan trước hết và đích thực là một thi sĩ. Đồng thời, Nhan đã nghiên cứu có hệ thống nền văn học chữ Hán cổ, vì đó cũng là một nhánh suối bắt nguồn của dòng sông văn hiến Việt Nam, trên 60 đầu sách được được xuất bản đã minh chứng sức làm việc của Nhan, cật lực và bền bỉ, vừa vì lợi ích trong lãnh vực văn hóa, vừa có thu nhâp để bảo bọc gia đình, giúp con học hành đến nơi đến chốn, làm tròn bổn phận làm cha.
Nhan ơi, chúng ta bất chấp một thứ lịch sử do những kẻ mạnh áp đặt, làm đau khổ triền miên dân tộc và gia đình chúng ta từ hai thế kỷ qua (với chúng tôi lịch sử cũng có nhiều khả năng của xác suất như cơ học lượng tử đã lý giải). Những chủ nghĩa, học thuyết núp sau súng đạn lần lượt đổ bộ vào quê hương thân yêu của chúng ta, làm gãy đổ biết bao mộng ước lành mạnh của con người Việt Nam thuần khiết. Chúng ta đã sống đầm ấm với nhau, nương tựa nhau, kiên trì bên nhau góp
phần làm phong phú văn học và văn hóa Việt Nam, mà không thế lực đen tối nào phủ nhận nổi. Chúng ta không quá tự tôn để nói với con cháu rằng Nguyễn Tôn Nhan tự hào đã đi theo con đường của Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Ký,
Nguyễn Văn Vĩnh,… trong điều kiện khác theo yêu cầu của văn hóa.
Nhan ơi! Mỗi lần găp lại sau một thời gian nào đó mình phải xa nhau Nhan nói “tôi nhớ Trung quá…”. Bây giờ tôi biết nói gì hơn: “tôi thương nhớ Nhan vô cùng!”.
Gia Định thành, tháng giêng, Tân Mẹo - 2011 (10/02/2011)
Triệu Từ Truyền
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét