Thi sĩ Yến Lan
TRÍCH HỒI KÝ "VỀ NGƯỜI CHA THI SĨ"
Chương: Những nàng
thơ của cha
Nhà thơ
Xuân Diêu cho rằng “Là thi sĩ nghĩa là ru
với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây...”
Ba tôi là thi sĩ, có lẽ ông cũng vậy chăng???
Cũng vì
thế mà đã có phóng viên hỏi ông:
“Người ta thường nói thi sĩ rất đa tình, vậy
với ông?”
YL: “Tôi chưa bao giờ mở lời nói với bất kỳ người phụ nữ nào là – Em đẹp
lắm, anh yêu em vô cùng. Tôi chỉ tỏ bằng ánh mắt và những vần thơ nhớ nhung. Vì
thế tôi đã đánh mất rất nhiều tình yêu, chỉ vì nhìn thôi nên qua luôn”
Thường tình lúc nhỏ, ba
tôi hay kể chuyện cổ tích, ngụ ngôn để ru ngủ chúng tôi. Khi chúng tôi ở vào
lứa tuổi dậy thì, thì má tôi hay kề về các nàng thơ của ba. Các nàng thơ ấy lần
lượt, từng người một, lãng mạn, thanh tao duyên dáng lướt qua rồi hiện ra từ
những vần thơ tình của ba tôi.
Xin kể
lại: Ba tôi- nhà thơ Yến Lan có hai năm dạy học ở trường Tư thục tại Nhà Chung
Thanh Hóa. Trường có tên Alexandre de Rhodes. Hay còn gọi là trường Mission. Cạnh trường là
ngôi biệt thự của một gia đình quyền quí; mẹ là người Việt, cha người Pháp. Họ sinh
đôi được hai cô con gái, giống nhau như hai giọt nước. Tên
cô chị là Thỏ, em là Thẻ. Cặp trẻ lai được trời ban cho khuôn mặt Tây lai ta:
đầy đặn nét ngài, sống mũi cao, mắt nâu, da trắng hồng, tóc đen nhánh, dày xỏa
tràn bờ vai.
Tuy nói giống nhau như hai giọt nước, song,
nhìn kỹ thì cô Thỏ mặn mà, sắc sảo; nét
nào ra nét đó. Các chàng trai từ Nam ra Bắc đều nghe đồn về sắc đẹp của hai cô,
nhất là cô Thỏ, ai cũng muốn tận mắt chiêm ngưỡng tinh hoa của trời có đúng như
lời đồn đại không?
Cha về Pháp, để lại cho hai cô Cửa hàng Mỹ
phẩm trên đường, nay là đường Lê Hoàng - Thanh Hóa. Mẹ mất, hai cô ở với người
cậu.
Cô
Thỏ biết thế mạnh về nhan sắc của mình, nên rất kiêu kỳ. Sự kiêu kỳ đến độ chẳng
một ai lọt được vào mắt xanh của nàng. Các thầy giáo trẻ của trường nhiều lần
bị nàng cự tuyệt; ức lắm! Họ tìm cách trả thù. Thế rồi họ phát hiện ra người có
thể làm được chuyện này là chàng nhà giáo làm thơ- thi sĩ Xuân Khai, người Bình
Định. Chàng thi sĩ vừa đẹp trai, phong thái lại đỉnh đạc: “Hắn ta có thể đánh bại được “kẻ thù chung” của chúng ta!” Và họ liền thách thức chàng: “Cậu mà cưa đổ được cô nàng, thì tụi mình
trả cho cậu tháng lương”. Một tháng lương của thầy Khai hồi đó là 120 đồng
Đông Dương, lớn lắm chứ chơi đâu! Song, chẳng vì tháng lương của đồng nghiệp mà
chính chàng cũng đã nghe nói đến sự kiêu căng của cô nàng, nên muốn thử:
“Xem mèo
nào cắn mỉu nào”
Thiết nghĩ, chúng ta cũng nên biết về mái
trường mà ba tôi dạy một chút. Dẫu sao, chính nó cũng góp phần vào việc gây
phiền toái không ít cho đời ba ngay từ trong kháng chiến rồi cả thời gian dài
sau này.
Đây là trường Tư thục của người Cơ-Đốc-Giáo.
Niên khóa năm 1941-1942, nhà thơ Chế Lan Viên dạy Việt văn từ lớp đệ nhất niên
đến đệ tứ niên và dạy Pháp văn lớp đệ nhất niên ở đây. Mỗi tuần, dạy bốn giờ,
lương 80đ / tháng.
Niên khóa 1942-1943, trường
Chấn Thanh ở Đà Nẵng mời chú Chế về dạy; giờ dạy ít hơn nhưng bằng lương, nên
chú nhận lời. Để trọn tình với ông bạn thưở hàn vi, chú giới thiệu ba tôi ra thay
chú. Trường đã nghe danh Xuân Khai nên bằng lòng để Yến Lan ra Thanh Hóa thế
chỗ cho Chế Lan Viên.
Ba tôi đôi lần chia sẻ: “Dạy được một thời
gian ngắn, thì ba được Trường tín nhiệm, tăng lương lên 120đ, mức lương rất cao
so với đồng nghiệp cùng thời.
Ta quay về chuyện cô Thỏ nhé!
Mãi vẫn chưa có cơ hội tiếp cận đối tượng để
trừng phạt tính kiêu ngạo của cô nàng. Một hôm, trên đường về nhà, dịp may hiếm
có. Cùng con đường, cô Thỏ đạp xe hướng ngược lại. Bỗng đâu, một luồng gió mạnh
thổi làm tà áo dài của cô quấn vào xích xe đạp. Loay hoay mãi vẫn không lấy
được vạt áo ra! Đúng lúc, thầy Xuân Khai bước đến, nhẹ nâng bánh xe sau lên,
quay ngược rồi cẩn thận gỡ tà áo ra; xong, chẳng nói chẳng rằng, tỉnh bơ đi
thẳng, không kịp để người đẹp nói lời cảm ơn. Chính cái phớt tỉnh Ăng-lê đó
khiến người đẹp ấm ức, cục tự ái dâng lên tận cổ. Cô quyết tâm tìm bằng được
con người khinh bạc và lãng tử kia là ai, từ đâu đến, sao mà hách dịch đến thế?
Liền sau đó, cô nhờ người dò la tin tức, địa
chỉ chàng để biết người ấy như thế nào mà dám phớt tỉnh cả với cô?
Hôm đó, giờ tan lớp, chàng nhà giáo trẻ lững
thửng bước ra cổng; chàng vô cùng ngạc nhiên, thấy cô Thỏ đã đứng bên trái
cổng, mắt xuyên không gian, hướng thẳng về phía chàng, nụ cười mỉm chi đã sẵn
trên môi thắm; dưới bóng hàng phi lao, trong chiếc áo dài màu hoàng yến, nàng trông
thật lộng lẫy! Lạ thay! Chàng thấy cô vẫy tay ra hiệu chàng đến với nàng…
Rồi, từ đó, cứ giờ tan trường, nàng đứng dưới bóng
mát hàng phi lao, đón chàng bằng chiếc xe đạp nọ.
Sự việc ấy, khiến đồng nghiệp đầu hàng và xác
nhận chiến công đích thực của chàng thi sĩ
“Trái tim cô gái kiêu kỳ kia đã bị
Xuân Khai chinh phục hoàn toàn rồi!” Ngày nghỉ, người ta thường thấy chàng
và cô Thỏ sóng đôi trên bãi biển Sầm Sơn, hay ở công viên trước những cặp mắt
ghen tỵ của các chàng trai trẻ nói chung và của đồng nghiệp nói riêng.
Mùa đông năm ấy, cô Thỏ đan tặng chàng chiếc
fuolard quàng cổ màu xanh cổ vịt. Lại nữa, cô đem xấp vải Tropican trắng, cha
gửi từ Pháp sang, may cho chàng bộ complet.
(Bộ complet này, ba tôi đã mặc trên chuyến tàu về lại quê. Ông cho rằng
chính vẻ sang trọng của nó đã làm cho các sĩ quan Pháp ngồi cùng toa kính nể
ông. Bài viết “Trên chuyến tàu về lại quê năm ấy”)
Ba tôi và cô Thỏ không đến được với nhau là
do chiến tranh loạn lạc. Nhật đảo chính, Pháp rút lui khỏi xứ Thanh. Trước tình
hình đó, chị em Thỏ, Thẻ được cha đón về Pháp. Còn ba tôi về quê tham gia kháng
chiến kiến quốc.
Bộ complet và chiếc foulard quàng cổ, cô Thỏ
tặng đã thành kỷ vật theo ba nhiều năm, tháng. Lần họp toàn thể anh em làm công
tác Văn hóa Liên Khu Năm, ở Thiết Đình Bồng Sơn bị máy bay oanh tạc. Một mảnh
bom đã cứa rách ống quần và làm ông bị thương ở gót chân trái.
Tiếc kỷ vật, ba giữ lại, đem thuê thợ may
hai chiếc mũ vành rộng cho hai chị em. Hai chiếc mũ này được chúng tôi đội ra
tới Miền Bắc. Lúc tập trung vào Trường Học sinh Miền Nam, vì sự đồng phục từ áo
quần, dép cao su, mũ lá cọ, chúng tôi đã bỏ hai chiếc mũ ấy tại Thái Bình. Sau
này, nghe ba kể xuất xứ về hai chiếc mũ thì tôi tiếc vô cùng! Nếu biết giá trị
kỹ vật như thế, tôi đã giữ lại, để giờ đây “Phòng lưu niệm Yến Lan” có
thêm bằng chứng xác thực về mối tình lãng mạn, dễ thương của chàng thi sĩ Xứ
Nẫu với cô gái lai Pháp xứ Thanh.
Còn chiếc áo, ba cũng mang ra Bắc. Ngày đông
lạnh giá ở Hà Nội, chiếc áo đó đã sưởi ấm ba suốt bao năm đất nước chia đôi.
Một lần, vào “Cửa Hàng Đồ cũ” đường Hồng Bàng - Hải Phòng, thấy có chiếc quần
trắng, hao hao giống vải của chiếc quần, ông liền mua cho đủ bộ. Không biết có
phải bộ ông mặc ở bức ảnh chụp với nhà văn Nguyễn Khải và nhà thơ Hoàng Minh
Châu không?
Có một ít đáng lưu ý.
Vào ngày giỗ lần 12
của ba (2010) tại quê. Nhà văn Mai Ngọc Thanh - người trước kia - một trong
những bạn vong niên rất trân trọng ba tôi, đã gửi tặng tôi quyển truyện ngắn của
chú vừa được xuất bản.
Hồi đó, thỉnh thoảng về phép, tôi gặp chú ở
37 Hàng Quạt. Tôi thấy ba và chú thân thiết lắm, nên khi biên tập Hồi ký “Yến Lan, nhớ mãi về anh”, tôi muốn viết
vài dòng về chú, nhưng không liên hệ được! Tình cảm của chú đối với gia đình
tôi, chú viết:
“Với anh Yến Lan, tôi có nhiều kỷ niệm lắm.
Với chị Yến Lan và các con của anh chị, vợ chồng tôi có nhiều gắn bó lắm, khó
mà kể ra cho hết. Tình cảm ấy trở thành tài sản trong cuộc sống của vợ chồng
tôi, thứ tài sản bền vững nhất...”
Mối tình của ba tôi với cô Thỏ, chú nói có
hơi khác :
“Lúc chú đang ở với bà ngoại để học Tiểu học (Moyen 1 và
Moyen 2) tại trường Mission hai năm; học với thầy Nguyễn Đình Tiên (là nhà văn
quân đội, tác giả bộ sách “Chân dung tướng ngụy Sài Gòn” là bạn học với Nguyễn
Tường Vân, con trai ông Nguyễn Tường Long, anh ruột của hai chị em cô Thỏ-Thẻ.
Hai chị em đều là hoa khôi của tỉnh Thanh Hóa thời ấy, khiến không ít chàng
trai mê đắm. Nguyễn Thị Thẻ yêu Phạm Huy Thông với “Tiếng địch sông Ô”, ở phố
Hàng Bạc Hà Nội, còn cô Thỏ yêu Xuân Khai với “Bến My Lăng”. Như vậy, hai chị
em ruột yêu hai thi sĩ rất nổi tiếng thời bấy giờ. Khi trường Mission đóng cửa,
Yến Lan quay về quê, còn Phạm Huy Thông phải đi du học bên Pháp.
Thế có nghĩa, theo chú Ngọc Thanh thì hai cô
Thỏ-Thẻ là người Việt thuần chủng, có anh ruột là Nguyễn Tường Vân, con ông
Nguyễn Tường Long.
Còn như ba kể cho tôi nghe lại, thì cô Thỏ và
Thẻ là con sinh đôi, lai Pháp. Thực ra, chú Mai Thanh cũng không đảm bảo chính
xác lắm về những gì chú nói!?
Nếu lấy nội dung bài thơ “Mùa xuân này lạnh lắm em ơi” của ba tôi,
từ những câu này mà suy ra thì câu chuyện ba chắc hẳn là đúng:
Ta đang dệt mộng với tơ vần
Rối rắm tâm tư cố gỡ
lần
Mơ ước vừa vun đầu
ngọn bút
Biết đâu em sắp sẵn hành trang
Em đi, ngày tháng biệt mùi
tăm
Kén đã luân sinh mấy kiếp tằm.
Một mảnh hồn ta còn đọng mãi
Trên vành nong úa sắc thời gian.
Mảnh áo tơ vân lỗi hẹn rồi
Mùa xuân này lạnh lắm em ơi
Bài thơ ấy đắp sao cho kín
Mảng tuyết cô liêu phủ suốt đời.
Ông viết
bài thơ này khi hai chị em cô Thỏ-Thẻ chuẩn bị về Pháp. Ba nói: “Lúc đó, hai cô
sống với người cậu. Nên có thể - Ông Nguyễn Tường Long là cậu chứ không thể là
cha, còn Nguyễn Tường Vân có thể là anh em con cậu mà thôi. Nếu ai biết rõ hơn xin chia sẻ dùm.
Lâm Bích Thuỷ (TP. HCM)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét