Người
anh rể (họ) của tôi quê ở Bình Định nhưng sau giải phóng, năm 1976, do buổi
giao thời, ở quê không sống nổi, anh
vào lập nghiệp tại Long An. Anh là người yêu thơ, lúc nào có việc gì liên quan đến
thơ, anh đều ghé vào bán đảo Thanh Đa thơ mộng để thăm và kể lại cho tôi
nghe mọi chuyện xảy ra trong giới văn chương.
Lần
thăm này, anh hỏi tôi: “Em có nghe tin là gia đình cụ Phan Khôi không tìm
thấy mộ phần?" Không biết tin này có xác thực hay không; tôi e rằng người báo
tin này có ý trách “Ai đó” không quan tâm đến tiên sinh họ Phan này chăng?!
Mà
cũng thật kỳ lạ, cứ mỗi lần nghe đến tên Phan Khôi thì trong đầu tôi lại
hiện về một quá khứ không lấy gì làm vui cho lắm; hình ảnh một ông già; người
cao cao, gầy yếu, nước da men mét, râu tóc bạc phơ rõ dần trong đầu tôi. Ấn
tượng về cụ in đậm trong lòng tôi hơn nửa thế kỷ. Nhưng bấy giờ, tôi còn
nhỏ, độ 12-13 tuổi, đang học lớp 4 tại Trường Học sinh Miền Nam, ở Hải Phòng.
Cái tuổi chưa hiểu gì lắm về thế thái nhân sinh.
Sở dĩ anh rể họ hay nhắc đến cụ Phan Khôi với tôi, vì anh nghe người ta kể lại
sự việc khi cụ Phan Khôi mất, lúc bấy giờ cả Hội Nhà văn có hàng
trăm người mà không ai đến thắp cho cụ một nén nhang, chỉ có ba tôi
là “Người bạn thơ độc nhất đi sau linh cửu cụ Phan Khôi đến nơi an nghỉ
cuối cùng ở vào giai đoạn đấu tranh gay gắt nhất của cuộc cách mạng
văn học dân tộc vào năm 1959”.
Nói lại chuyện này giờ đây dễ dàng và bình
thường như những chuyện bình thường khác ở huyện; nhưng lúc bấy giờ, khi
tất cả mọi người xung quanh đều lo sợ liên lụy đến người bị xem là có hệ tư
tưởng phản động nhất của cái gọi là Nhân Văn Giai Phẩm, thì giữ được cái tình
cái nghĩa không dễ chút nào.
Mỗi lần
nhắc đến chuyện này, tôi lại thấy xót xa nơi con tim mình. Hình ảnh ba tôi-
nhà thơ Yến Lan đi sau linh cữu cụ Khôi ngày ấy chắc những người đã có
tuổi vẫn còn nhớ. Thế tại sao cái đều rất bình thường ấy lại gây xôn xao trong
dư luận tại Hà Nội một thời như vậy?
Ngược
dòng thời gian về lại những năm của thập niên 50, thế kỷ trước. Năm 1956, gia
đình tôi chuyển từ 51 Trần Hưng Đạo về
73 phố Thuốc Bắc. Cùng chuyển về đây còn có các bác, cô, chú trong cơ quan của
Hội Nhà văn. Nhà 73 phố Thuốc Bắc có chiều dài khỏang 50 mét, chiều ngang 5 mét.
Suốt chiều dài người ta chừa một mét để làm lối đi chung, rồi ngăn bằng ván làm cho
mỗi gia đình một gian để ở. Tầng dưới nhà có 7 gia đình, trên gác chỉ có 3.
Những căn hộ ở trên gác thì rộng rãi, biệt lập, có cầu thang riêng, không chung
đụng với người xung quanh- dành cho các gia đình cán bộ hành chính. Toàn
bộ các hộ đều dùng chung nhà tắm, nhà bếp, nhà vệ sinh đều nằm ở cuối nhà. Vì
vậy, hàng ngày dù muốn hay không mọi người đều gặp nhau, khi thì nấu ăn, khi
tắm giặt, hay vệ sinh v.v…
Gia đình
tôi ở phía dưới, giữa 6 gia đình khác; kề vách là gia đình cụ Khôi. Phía ngoài
cụ là chân cầu thang của hộ bà Cán, đến bể nước công cộng. Căn dành cho gia
đình cụ Khôi là một cái buồng khép kín, rộng chừng 9m2, bằng 3/4 gian nhà tôi.
Có thể đây là nơi thờ cúng của chủ trước. Giữa nhà tôi và nhà cụ là một cửa sổ
nhỏ, to bằng bàn cờ tướng. Tôi thường ngồi bên bể nước công cộng, cạnh cửa
sổ nhà cụ để giặt giũ .
Ban đầu
mới dọn về, tôi thấy ba và các chú nhà thơ hay vào phòng cụ Khôi uống trà, bàn
chuyện thời sự, bình luận những bài thơ, những từ ngữ của bài thơ trên
báo. Bọn trẻ chúng tôi chạy vô chạy ra nhà cụ để chơi với các anh các chị con
cụ; mọi người đều thân thiện, cởi mở. Thế rồi, dần dần tôi thấy có một điều gì
đó, lung lắm. Các cô, các chú không xởi lởi như trước nữa. Trong cư xử mọi
người tỏ ra dè dặt, dò xét. Nhà cụ Khôi cứ vắng dần bóng người lớn, không còn
trẻ chạy ra vô nhà cụ nữa! Không khí trong ngôi nhà nặng nề, xét nét, và
xa lạ. Thấy khác thường, tôi hỏi má: “Má
ơi tại sao các bác, các chú không chơi với cụ Khôi nữa?” Vẻ lo
lắng bà kề sát tai tôi, nói nhỏ như sợ người khác nghe được: “Ông Khôi
bị coi là người cầm đầu nhóm
phản động- Nhân văn giai phẩm. Con cũng đừng vào nhà cụ nữa, người ta đang
theo dõi ba mình đó.”
Thật sự lúc bấy giờ tôi không hiểu Nhân
văn giai phẩm là tội gì, nặng đến mức nào mà ai cũng sợ bị dính líu đến
cụ Khôi như thế?! Tuy không nói ra nhưng ai cũng muốn chứng minh rằng mình
không hề có quan hệ thân mật với cụ Khôi nữa. Họ tránh nhà cụ như thể nhà có
dịch hạch lây lang. Với những điều nghe và thấy, tôi không biết sẽ đối xử với
mấy anh chị con cụ như thế nào, không lẽ hai nhà liền nhau chung một cửa sổ,
lại cùng là học sinh Miền Nam; dạo nọ chơi đùa với nhau giờ lại tỏ ra chẳng
hề quen biết sao mà đành đoạn! Nhưng, dường như nhà cụ hiểu được nỗi lo
sợ của má tôi nên tế nhị lấy báo dán kín cửa sổ lại...
Lâu lâu
tôi cũng có thấy cụ ngang qua; vẫn dáng người cao, gầy, nhưng yếu hơn trong
bộ đồ tây màu vàng nhạt. Tóc cụ rụng nhiều, còn lơ thơ vài cộng, bạc trắng,
ẩn sau chiếc mũ phớt màu nâu. Trên tay cụ giờ có thêm chiếc ba-toong; nhưng bây
giờ, gặp ai cụ cũng làm ngơ, mắt hướng thẳng phía trước như chưa hề biết họ!
Như
trước đây, tôi vẫn ngồi giặt bên bể nước, cạnh cửa sổ nhà cụ. Tôi liếc nhìn cụ
qua cửa sổ. Cụ ngồi trên chiếc giường đơn, trầm ngâm, mặt buồn buồn, mắt nhìn
đâu đâu vào khoảng không gian. Tôi thầm thương cụ quá chừng mà không dám
thổ lộ. Càng thương hơn khi nghe cụ ngâm bằng giọng Quảng Nam:
Làm sao cũng chẳng làm sao
dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi
Làm chi cũng chẳng làm chi
Dẫu có điều gì cũng chẳng làm sao
Rồi,
cái gì đến nó đã đến! Vào một ngày cuối đông năm 1959, cụ Khôi lặng lẽ ra
đi!
Má tôi kể: “Nhà tập thể, linh cửu không được
quàng lâu, chỉ một hôm phải đưa đi an táng. Tôi không được chứng kiến những gì
xảy ra trong đám tang sáng hôm ấy, vì đang học tận Hải Phòng. Nhưng điều tôi
nghe được thật thảm, thật buồn, thương cho cụ ra đi trong sự tuyệt vọng:
Chở linh cữu cụ là một chiếc xe thổ mộ có 2 con ngựa kéo bị che 2 bên mắt,
khỏang 6 hoặc 7 người kể cả người đánh xe ngựa và ba tôi, người bạn thơ độc
nhất trong hàng trăm bạn thơ khác. Nhưng đau lòng nhất để lại sau đám
tang là sự dè biểu, mỉa mai giận dữ của người đời đối với ba tôi mà bấy
giờ họ gọi ông là “thằng” kèm
theo những lời chửi rủa thậm tệ.
Ngay sáng hôm sau, ngòai phố, dưới mỗi gốc
cây to, từng nhóm to nhỏ bàn tán kể lại: “Nghe nói ngoài gia đình
lão Khôi còn có thằng cha nhà thơ nào đó dám cả gan đưa đám lão… ”
Giải
thích nỗi lo lắng của vợ con, ba tôi nói: “Đó là vì đạo lý của người
Việt Nam
- Nghĩa tử là nghĩa tận”. Đúng thế, chẳng có ai ghen ghét hay căm thù người
đã khuất, chỉ vì hòan cảnh hồi đó, nếu bị nhận xét không là phản động sẽ bị hại cả đời trong
tương lai.
Suốt
những năm tháng sau này, tôi luôn muốn biết về cuộc đời của cụ. Một hôm, vào
năm 2004 tôi đọc trên Tạp Chí Xưa & Nay với bài viết về cụ Phan Khôi của
tác giả Vương Trí Nhàn. Bài báo đã khẳng định cụ Phan Khôi có góp công trong
kháng chiến và trong lịch sử phát triển Văn học Việt Nam bằng những tác
phẩm như Tình già..., ông còn nghiên cứu làm phong phú thêm cho ngôn
ngữ dân tộc Việt Nam ta v.v…
Đọc bài
báo, tôi thật sự mừng cho cụ Khôi biết nhường nào. Mừng vì người ta đã hiểu cụ
như tôi. Lại nữa, đầu tháng 4 năm 2007 những người trong nhóm “Nhân văn giai
phẩm phản động” như nhà thơ Hòang Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Yến Lan đã
được nhận giải thưởng nhà nước. Đến giờ Đảng và chính phủ mới hiểu họ
thì cũng hơi muộn song còn hơn là không. Họ có công chứ không phải có
tội như ngày ấy người ta qui chụp.
Riêng
cụ Khôi không biết sẽ như thế nào? Một điều giờ đây tôi mới dám nói ra; có lần
cụ Khôi tâm sự với ba tôi: “Tôi khổ tâm lắm chú Yến Lan ơi, không ai hiểu tôi
cả!” Một lời tâm sự từ cõi lòng của cụ Phan Khôi chỉ có ba tôi biết.
Tôi tin rằng, tại suối vàng hôm nay chắc cụ đang mỉm cười, vì con gái
người bạn thơ đã thay cha nhắc lại cho thế hệ trẻ lời tâm sự để họ
hiểu về cụ Phan Khôi tiên sinh đáng kính như thế nào.
Với sự hiểu biết hạn hẹp và phiến diện khi biết
về cụ Phan Khôi- “Cụ là người có cá tính thẳng thắn, bộc trực, thấy điều
không đúng thì nói ra, không nể nang ai nên mới khổ”.
Còn việc không tìm được mộ cụ, đúng là
chưa tìm được. Tôi cầu mong cho người thân của cụ tìm thấy mộ phần
và thắp dùm gia đình Yến Lan nén tâm hương.
Lâm Bích Thuỷ (TP. HCM)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét