Ngày mới về lại quê nhà ngay sau Giải phóng 1975: Tất cả
đã thay đổi; con sông nước trong xanh cạnh nhà bác Sáu Mai; xưa má thường ra
giặt giũ; nay khô cạn, trơ sỏi đá, rác rến lấp đầy một nửa. Chiến tranh đã xóa
đi nhiều dấu ấn thời trai trẻ của ba tôi - nhà thơ Yến Lan. Hoài niệm và thực
tiễn cứ đan xen, chập chờn thực hư, nhớ nhớ, quên quên. Nghĩ đi nghĩ lại,
tình quê lại choán hết tâm hồn ông:
Bình Định đây, từng sợi tơ ngọn tóc
Vẫn chứa chan, tin tưởng tự bao giờ
…
Xanh sắc lại, mênh mông trời rộng mở
Hồn ta nay ước choáng cả không gian
Ơi Bình Định, từ con tim ấp lửa
Bừng lên - bừng, thành một cuộc hoa đăng
Chiến tranh đã đi qua, nhưng còn đây, trước mắt nhà thơ
là những cháu bé áo quần xộc xệch, mặt mũi lem luốc nhặt từng mảnh phế liệu. Cụ
thể và đau xót hơn, đó là “chút chít trẻ con
lai” - chứng nhân của tội ác chiến tranh, là nỗi đau không hình hài
phải chịu bao hệ lụy của cuộc chiến, xót xa lắm! Chúng là hình ảnh của quá khứ
và là hình ảnh sống động của tương lai, bởi chúng là con người bằng xương, bằng
thịt làm tim ông nhức nhói:
Vỏ chai, hộp găm đau lòng hố cỏ
Tiếng xới tìm chút chít trẻ con lai…
Song, nhà thơ cảm nhận được từ sự mạnh mẽ lớn lao đôi khi
thể hiện rõ ràng, tinh tế nơi cái nhỏ bé, bình thường. Hình ảnh trong thơ ông
vẫn là cuộc sống mới đang về trên quê hương:
Lớp học bình dân đông theo tiếng kẻng
Nét chữ cong nghiêng hoa lúa đầu mùa
Kẻ tóc bạc tay dây đầy mực tím
Miệng ráp vần như trẻ lại bi bô
Những xúc cảm dạt dào từ trong sâu thẳm bỗng trào lên
trong nhà thơ như một sự giao hòa thân thiết giữa người và thiên nhiên: “Thị trấn này tuy nhỏ nhưng nó đã ăn sâu vào máu thịt
tôi một cách sâu nặng, thiêng liêng, khó giải thích được”. Cảm xúc
đó đã khiến ông viết được bài thơ cảm động như Cây me mẹ tựa:
Từ bữa ra đi chị ẵm bồng
Nay về trẻ xóm gọi bằng ông
Bạn xưa còn có cây me cụt
Mưa xói mòn nơi mẹ tựa trông
Có ai thấu được tâm sự còn ẩn sâu trong trái tim già nua
của cha tôi:
Nhìn nhau cho tạng mặt mày
Hành trình
còn một quãng này nữa thôi
Sơn Thanh, Thủy Tú qua rồi
Chỉ còn suối trũng đá lồi đợi ta
Chần chừ bước nhọc khó xa
Ngày thời ngắn ngủi cái già hẩm hiu
Và những day dứt của cội nguồn tình thân ruột thịt, máu mủ như ba tôi đã viết:
Mười tám năm xa phần mộ mẹ
Chị gần, sức yếu khó tìm thăm
Thị trấn Bình Định nhỏ bé, đìu hiu, bình dị là vậy, nhưng là ngọn lửa âm ỉ cháy mãi trong
tim người thi sĩ. Đã có bao nhiêu cảnh, vật trở thành hồn quê trong thơ
ông? Về cảnh thì muôn màu sắc, về tình thì mênh mông. Một khúc sông thân quen
bị lãng quên để rồi một ngày gặp lại hóa thiêng liêng cao quí:
Sông vẫn sông xưa nước đổi nguồn
Uống vào khang khác vị quê hương
Chút vì tuổi trẻ từng bơi lặn
Kỷ niệm hòa vào hóa nhớ thương
(Sau một công trình
Thủy lợi - An Tường
1989)
Những ngày mới về lại quê nhà, phát hiện người hàng
xóm lấn sang nhà mình 0,3m dọc, 13m dài. Má tôi tiếc của nói suốt, bảo ba kiện lấy lại nhưng ba tôi ngăn cản: “Bà đừng làm vậy mếch lòng
láng giềng, người ta sẽ bảo cán bộ ở Bắc mới về đã lo giành đất của dân. Thôi
chịu thiệt chút xíu mà được lòng bà con lối xóm. Bà không nghe người ta
nói “Bán bà con xa, mua láng giềng
gần hay sao?”.
Cậu Ba Thành vừa bạn học, anh vợ, lại là đồng nghiệp,
những ngày đầu Cách mạng tháng Tám hai
anh em đã đứng lên dẫn đầu đoàn dân quân đi cướp chính quyền. Trước khi đi tập kết, ba gửi cậu
chiếc rương đựng toàn bộ bản thảo, một sổ ảnh do chú Mịch Quang chụp và
những sáng tác từ trước, nhờ cậu giữ và hẹn hai năm sau về nhận lại. Sau
đó, do sợ người ta biết còn quan hệ với người đi tập kết nên cậu đã đem đốt
ra tro những đứa con tinh thần đó! Dù tiếc đứt ruột nhưng ba tôi không
nỡ trách cậu; trái lại, ông nhìn thấy cảnh sống của cậu mà cảm thương:
không lương bổng, con đông, túng bấn, bệnh hoạn không tiền mua thuốc. Tới thăm
thấy cậu nằm bẹp trong góc tối, ôm ngực ho khù khụ, người như xác ve; ba tôi
viết thư cho tôi, lời lẽ thống thiết khiến tôi không nỡ từ chối: “Con ơi! làm cách nào giúp cậu Ba! Cậu ốm nặng lắm
rồi, chẳng tiền thuốc. Tới thăm cậu, ba nhìn tấm thân còm dính chặt trên giường
mà thương quá. Con cố tìm cách giúp cậu. Ba biết nhà mình ai cũng khó nhưng
còn có nhà nước lo, cậu có ai đâu! Vậy con hãy vì “lá rách đùm lá nát” con
nhé".
Nhận được thư, tôi liền đi tìm chị Ba, bà con xa của cậu,
ở cách tôi vài trăm thước. Hai chị em bàn nhau, mỗi người chút đỉnh mua đường,
sữa, thuốc và ít tiền, gửi xe cơ quan “Animex” ra. Cầm gói quà, ba tôi hăm hở
tới đưa cậu liền, sau đó, viết thư báo cho tôi biết: “Cậu con nhận được quà, cảm động khóc hu hu; nước
mắt tràn ướt đôi gò má hóp, thương lắm. Cậu xuýt xoa: Trời ơi! quí hóa quá
dượng ơi, quí quá! Từ tấm bé đến giờ tôi chưa được ai cho quà nhiều thế này.
Nếu có viết thư cho cháu, dượng chuyển lời cảm ơn dùm tôi nhé!”
Tuy đất nước đã vẹn toàn nhưng cuộc sống người dân
thị trấn còn có gia đình bữa ăn, bữa nhịn. Ngay như ba má tôi, dù có
lương hưu, song chẳng thấm vào đâu. Nhu cầu đơn giản về sinh hoạt, nước sạch,
chỗ vệ sinh rất tệ. Nhà ở giữa chợ, ngày phiên phải hứng chịu mọi thứ từ trong
ấy phát ra: tiếng ồn, mùi hôi tanh của cá mắm, mùi hoa quả hư, mùi phân gia
súc, gia cầm v.v.. Vấn đề sinh hoạt giải trí cho thanh, thiếu niên không có gì…
Sau vài năm, thư ra Hà Nội cho bác Khương Hữu Dụng, ba tôi đã viết: “Tình hình trong này hơi buồn vì không khí, con người,
cách nhìn chưa hòa nhịp - thật cũng ái ngại...”. Nhà thơ Thanh Thảo
nhớ lại: "Ngày Yến Lan còn khoẻ, thỉnh
thoảng tới thăm ông, tôi còn thấy những gánh hàng quê mà bà con buôn bán ở chợ
gửi lại tại nhà ông khi chợ tan, chờ hôm sau bán tiếp. Vợ chồng Yến Lan vui
lòng cho họ gửi mà không đòi một xu lệ phí, không giống như bây giờ ai có xe ô
tô hay xe máy gửi tháng đều phải đóng những khoản tiền khá đáng kể. Từ khi ở 37
Hàng Quạt - Hà Nội về hưu sống tại chợ Bình Định này, nhà Yến Lan vẫn nghèo.
Nếu ngày ở Thủ Đô, thời túng bấn, nhà Yến Lan vẫn hàng tháng giành dăm ký gạo
“hỗ trợ” cho nhà thơ Quang Dũng-một người bạn thân và làm cùng cơ quan nhà xuất
bản Văn Học- vì Quang Dũng vốn người to lớn luôn cảm thấy… đói khi ăn suất gạo
tiêu chuẩn 13 ký / tháng, thì khi về Bình Định, dù gạo tiêu chuẩn vẫn còn,
nhưng không ai nhờ đó mà… giàu lên được. “Không được sống xin cho cùng được thở”
(Bình Định 1935), tôi đọc câu thơ này mà thấy xa xót trong lòng, một câu thơ
như vận cả vào đời thơ Yến Lan. Có cảm giác như Yến Lan khổ cả đời, cho tới khi
ông nhắm mắt lìa trần, cái nghèo cái khổ cũng chưa buông tha…”.
Thị trấn bé nhỏ như một xã hội thu gọn; có đủ cả; nhiêu
khê, rối rắm và hủ lậu! Mới đầu, người dân ở đây đều tỏ lòng tin yêu, tôn
trọng cán bộ Rừng về hay ngoài Bắc vô. Nhưng chế độ nào cũng có người tốt, kẻ
xấu. Người có chức thì hách dịch, cửa quyền, áp đặt v.v... làm rạn nứt
niềm tin yêu và quí trọng của người dân, khiến cho số người trước đây có dính
dáng với chế độ cũ tâm trạng khá phức tạp; vừa vui cái vui chung của đất nước
được vẹn toàn, nhưng lại dè dặt, thận trọng giữ kẻ từng cử chỉ, lời ăn tiếng
nói vì nghĩ mình là người có tội, khiến họ phải bỏ quê tìm đường thoát
thân.
Ngay như trường hợp ba tôi, cán bộ nghỉ hưu từ Bắc
về mà cũng không tránh khỏi sự theo dõi của một vài anh cán bộ trẻ
mới tiếp quản. Có lẽ điểm khởi đầu của mọi rắc rối là chuyện về
hành động nhà thơ đi sau linh cữu cụ Phan Khôi. Họ lý luận logic là: “Tại
sao ở miền Bắc, khi Phan Khôi qua đời, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, lúc
đó, có hàng trăm người mà chẳng một ai ngoài gia đình mà chỉ mỗi Yến Lan dám
đưa ông đến nơi an nghỉ cuối cùng. Phan Khôi là người cầm đầu nhóm Nhân văn
giai phẩm, vậy có thế nào đó Yến Lan mới thế chứ?”. Điều thứ hai cũng là
dấu hỏi sau cái tên Yến Lan và có người theo dõi để xem ông có liên
hệ với thi sĩ Quách Tấn đang ở Nha Trang vì ông đã từng làm việc cho chế
độ Sài Gòn. Họ canh me cả với má tôi. Nhìn thấy bà trong
buổi họp Tổ Dân phố, có người hạch sách: “Sao lại mời bà này đến họp làm gì?”.
Nghe má kể mà tôi tức cả ruột. Sao người ta cố chấp đến thế? Bấy giờ là thời
nào mà ấu trĩ vậy?!
Vì thế, bà muốn quay ra Hà Nội hoặc vào Sài Gòn sống với
con cháu. Nhưng ba tôi vẫn khăng khăng điệp khúc: “Bà đi đâu thì đi, tôi chỉ ở quê thôi!”
Lâm Bích Thuỷ (TP. HCM)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét