1. Có thể nói về tác
giả Huỳnh Thúy Kiều như thế, một người nữ làm thơ mà trong thời gian gần đây mà
theo nhà thơ Trần Quang Quý “…với người
yêu thơ như một phát hiện, một tác giả trẻ ở đồng bằng sông Cửu Long, có khí
thơ châu thổ…”(1). Nguyễn Đức Phú Thọ cũng là một cây bút trẻ trong dòng
chảy của văn học phía Nam trong một bài
viết khác (2) cũng cho rằng: “Nói về thơ trẻ ĐBSCL mà không nhắc đến
Huỳnh Thúy Kiều là một thiếu sót lớn…Thơ chị mang nữ tính, e ấp, dịu dàng mà
cũng thật mãnh liệt phóng khoáng…”.
Cùng với các thứ hạng đã trao cho tác
giả nữ đồng bằng này, phần thưởng tổ chức nghề nghiệp tặng (3), hai tập thơ Kiều mây (2008) và mới đây, Giấu anh vào cỏ
xanh (2010) đã cho Huỳnh Thúy Kiều một chỗ đứng trong làng thơ Việt. Nhà
thơ Trần Quang Quý khi đọc tập thơ Giấu
anh vào cỏ xanh đã khá thuyết phục khi nhận xét cho dù có “Hàng loạt câu bài thơ, câu thơ như căn
cước văn hóa của châu thổ, những miệt vườn phì nhiêu, những tên gọi nôm na,
những đan chảy của phù sa, kênh rạch…” theo anh, thơ Huỳnh Thúy Kiều
“là một tâm thế đánh thức cảm xúc “chí
lớn” Cửu Long” hơn là “thơ mang mùi bùn đất” vì đó chỉ là một
cách nói. Và Trần Quang Quý gọi đó là
“cảm hứng chủ đạo”, “cảm hứng đánh thức
châu thổ, đánh thức bản năng tiềm ẩn của đất và người phương Nam”. “Thơ mang
hào khí cội nguồn và lịch sử văn hóa”. Cảm hứng ấy định hình một sắc thái
nổi trội hẳn so với các nhà thơ trẻ đồng bằng là vậy. Thơ Huỳnh Thúy Kiều là một
sản phẩm tâm hồn có “mã vạch” đồng bằng
châu thổ đất chín Rồng. (Trần Quang Quý).
2. Nhưng theo tôi, với bài thơ Em sẽ cùng mẹ ra thăm anh… của
Huỳnh Thúy Kiều (VNQĐ, số 752, tháng 7/2012) lại có một “mã vạch” khác đầy ấn
tượng: một tấm lòng thơ vì biển đảo quê hương
nồng nàn, mãnh liệt. Bởi ngay từ số
giới thiệu tác giả với những bài thơ tiêu biểu (VNQQĐ số 732, tháng 9/2011) nổi
trội là bài thơ “Em viết cho anh từ phía cuối chân trời”. Thi phẩm này Tuần báo
Văn nghệ TP.HCM đăng lại và được người đọc đón nhận nồng nhiệt. Cũng tiếp sau
đó trong tạp chí VNQĐ Xuân Nhâm Thìn (số 740, 741 tháng 1/2012) Huỳnh Thúy Kiều
lại có bài đăng Thư cho Trường Sa.
Hướng về biển đảo, vùng lãnh hải biển Đông
hoàn toàn thuộc chủ quyền của Việt Nam: Hoàng Sa, Trường Sa đã là tự
tình Tổ quốc thẳm sâu của cả dân tộc. Hôm nay biển Đông đã dậy sóng! Trung Quốc
ngang ngược xâm phạm lãnh hải ngàn đời mà xương máu bao lớp thế hệ cha anh hi
sinh gìn giữ đầy thách thức. Nào là cắt cáp thăm dò dầu khí, tấn công, bắt giữ
trái phép tàu thuyền đánh cá của ngư dân Việt, gọi thầu chín lô thuộc lãnh hải
của ta, thành lập thành phố “Tam sa” , đưa đoàn tàu đánh cá 30 chiếc đánh bắt
thủy sản phi pháp ở đảo Đá Chữ Thập,
Trường Sa… Trước tình hình đó, Nhà nước ta đã khẳng định dứt khoát chủ quyền của
Hoàng Sa, Trường Sa trước công luận quốc tế. Đặc biệt, Trường Sa, nhà giàn DK1
trong bão dông của sóng gió biển Đông, tham vọng điên cuồng của “đường lưỡi bò
chín đoạn” ngụy tạo- vẫn trụ vững, hiên ngang. Cả nước hướng về biển đảo, hướng
về Hoàng Sa, Trường Sa, chung tay góp sức, “góp đá” (4), gởi tình sẻ chia những
khó khăn, gian khổ với những chiến sĩ – những người con mang dòng máu Lạc Hồng
đang ngày đêm bảo vệ đất trời biển đảo. Âm nhạc, văn học, thơ ca cũng hòa vào
tâm tình chung ấy.
Chỉ xét riêng ở lãnh vực thơ ca, bài thơ
có độ dài 108 câu “Hào phóng thềm lục
địa” từng hai lần đoạt “trạng nguyên thơ” (5) của nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng vang vang hào khí của một thuở “Nam
quốc sơn hà”: “Dựng câu thơ thành cột mốc
chủ quyền/ Rằng cha ông ta vươn mình ra biển lớn/ Chểnh mảng nào cũng đắc tội
với tổ tiên..”, Rồi đến cuộc thi “Đây biển Việt Nam” đã có 1000 bài thơ gởi
về tham dự. Những tác phẩm được chọn trao giải (6) ngân vọng những vần thơ “Đem đại
nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân
để thay cường bạo”(Bình Ngô Đại Cáo – Nguyễn Trãi):
“Con
theo cha giữ nước phía biển Đông/ Biển là mẹ còn chúng con là sóng/ Khi đất
nước đối mặt với bão giông/ Cả biển sóng dựng lũy thành muôn dặm” (Tổ quốc bên
bờ biển cả - Nguyễn Việt Chiến); “Tổ quốc tôi ba nghìn cây số biển/ Nối ba vạn
cây số với đại dương/ Tàu bè bạn căng
phồng cờ gió Việt/ Nối với nhau bằng ngôn ngữ hòa bình.” (Tổ quốc tôi ba nghìn
cây số biển – Nguyễn Ngọc Phú); “Mộ gió đấy,/ giăng từng hàng, từng lớp/ vẫn
hùng binh giữa biển đảo xa khơi/ là mộ gió,/ gió thổi hoài, thổi mãi /thổi bùng
lên/ những ngọn sóng/ ngang trời!” (Mộ gió… - Trịnh Công Lộc).
Những câu thơ tuyệt vời đầy ăm ắp,
chứa chan tự tình người dân Việt đối với biển đảo, với những lớp người đã vì
biển đảo quên thân. Giữa những ngày biển Đông dậy sóng, những nhà thơ đoạt giải
còn đáng được ghi điểm 10 về tâm tình
công dân sôi trào nhiệt huyết, lắng
sâu suy tưởng trong từng con chữ, dòng thơ. Bởi họ đã nói thay tiếng lòng của
đông đảo bạn đọc. Đó là điểm gặp trên cả tuyệt vời của nghệ thuật thi ca và
công chúng! Và Huỳnh Thúy Kiều, một tác giả nữ của vùng sông nước, kênh rạch
cuối trời Nam
đã góp tiếng thơ, gởi tâm tình bằng giọng điệu của riêng mình:
“Một
câu thơ dài chưa viết nổi gửi Trường Sa
Thì Tổ quốc yêu từ phía nào cho
trọn vẹn?”
Tác giả khơi mạch xúc cảm
bằng sự tự vấn của người thơ và cho cả
những ngừoi làm thơ, tự tình công dân
hết sức chân thành. Trường Sa! Trường Sa trập trùng sóng gió, Tổ quốc ta nơi
biển Đông đang căng mình trong gian khổ trụ vững trước bão tố đại dương, trước
âm mưu xâm chiếm của kẻ thù nên hơn lúc nào hết cần lắm tấm lòng của hậu phương
đất liền. “Phong phanh gió/ Trường Sa
ngước mắt lên bốn bề sóng biển/ Khát thư đất liền như khát nụ môi thơm” Và
tiếng thơ “hồn hậu của văn hóa xứ miệt
vườn” (Nguyễn Đức Phú Thọ) tác giả đã cất lên tiếng lòng đượm nồng, thơm
thảo phù sa, kênh rạch, hoa mắm, hương cau đến Trường Sa đến những người chiến
sĩ đang kiên lòng, súng trong tay sẵn sàng xông trận. “Em viết cho anh từ phía cuối chân trời”, lá tình thư tràn yêu thương mộc mạc trong tiếng quẫy đạp, loi soi
của cá tôm, thòi lòi nơi cùng trời cuối đất. Cà Mau, Tháp Mười sao mà gần gụi
với Trường Sa đến vậy. Đậm đà có thể làm rưng rơi nước mắt là những câu thơ nói
lên nỗi đau nhói lòng, “Năm tháng đi qua/
Mẹ cha đội thương nhớ bạc trắng mái đầu/ Ngực giông tố/ Biển buồn. Nước mắt đầm
như sóng/ Hoàng Sa, Trường Sa vẫn ầm ào nhịp đập tuổi hai mươi”. Nỗi đau dồn
nén vào trong của những người mẹ, người cha ngóng vọng con mõi mòn nhưng vẫn
lấp lánh niềm tin kiêu hãnh. Ở bài thơ “Em
sẽ cùng mẹ ra thăm anh…” cũng là nỗi đau của người mẹ hoài vọng lặng thầm
người con liệt sĩ đã hi sinh trong cuộc chiến đấu oanh liệt ở đảo chìm Gạc Ma
năm 1988. “Giữa muôn trùng nắng gió Hoàng
Sa/ Anh ở đâu trong đội hình sáu mươi bốn chàng trai hi sinh năm đó?/ Mẹ còng
lưng lặng thầm chờ con qua hoàng hôn đời
người khóc sưng mắt đỏ/ Biển cồn cào hắt vị mặn lên môi…”. Trái tim của tác
giả còn khắc khoải sẻ chia nỗi mất mát không gì bù đắp được: những em thơ bé
dại mãi mãi không bao giờ còn được vòng tay yêu thương đoàn tụ với cha mình! “Thổn thức vỡ òa…” Ôi những người con cút côi do chính giặc dữ gây
ra và “Tiếng gọi cha chỉ còn âm ba…/ đồng
vọng…”. Tiếng lòng hồn hậu dạt dào sông nước của Huỳnh Thúy Kiều còn thấu
cảm nỗi lòng, những gian nan đời thường mà người chiến sĩ nơi biển đảo đối mặt
từng giờ: “Gom hết mùa hè đốt nóng Trường
Sa/ Cả một đại dương sao anh vẫn khát/ Hà Nội – Sài Gòn nắng nung đỏ mặt/ Có ai
thương đất liền bằng các anh đâu?”, “Mịt mùng sóng hoắc khô từng khay rau
muống/ Gọi tên Trường Sa nghe thương nhớ cứ rủ nhau về…” (Thư cho Trường Sa). “Vốc ngụm bùn sông Hậu/ Mẹ bảo em gói thêm
hoa mắm rừng chiều/ (Cánh sóng sẽ chuyển cho anh trăm ngàn nỗi nhớ)/ Con cá
thòi thòi nghiêng chiếc vây trườn ngộ/ Đã lâu không về anh thắt thỏm nhớ hương
cau…” (Em viết cho anh từ phía cuối
chân trời)
Nhưng Huỳnh Thúy Kiều không để mặc cho dòng xúc cảm tuôn chảy mà đầy
lắng đọng. Đó là lời nhắn nhủ trách nhiệm, hãy tiếp nối cha anh giữ gìn biển
đảo: “Sóng Trường Sa ru sáu mươi bốn trái
tim Việt Nam dưới đáy đại dương đang say giấc mộng/ Con lớn lên rồi cũng sẽ cầm
súng giữ biển đảo quê hương”, “…Gạc Ma – nơi các anh đã nằm xuống/ Đâu phải bài
học đầu tiên trong lịch sử hơn bốn ngàn năm dựng nước/ Thịt da này vì Tổ quốc
dấn thân” (Em sẽ cùng mẹ ra thăm
anh…) Ngay cả những dòng tình thư
gởi đến Hoàng Sa, Trường Sa, Huỳnh Thúy Kiều luôn chạm vào nỗi niềm của người đất liền mà hẳn không là của riêng
tác giả. “Thương mấy cho vừa hỡi Trường
Sa ơi/ Bờ dịu ngọt thơm mềm môi con gái/ Nơi anh giữ bình yên là nơi bốn bề
giông xô bão tới/ Tình yêu em như con tàu neo chặt đại dương anh…” (Thư cho Trường Sa); “…Con cá con tôm nơi mũi Cà Mau vẫn không
biết chiều nay biển động/ Cây đước cây mắm xõa tán miệt mài lớn lên giữa trập
trùng sóng/ Đêm Hòn Khoai/ Lời tự tình em nhường cho Tổ quốc thương yêu” (Em viết cho anh từ phía cuối chân trời).
Những
lắng đọng đầy suy tư trăn trở có chủ định trong dòng “cảm xúc ùa về, thiên ngẫu” (Trần Quang Quý), như “có một sự “lập trình”sẵn trước đó.” , “Mỗi bài thơ của chị như một ngọn pháo
sáng…Nhưng đến khi bùng nổ chúng lại rực rỡ sắc màu cùng một màu sắc, một hơi
nóng cuồng nhiệt, mê đắm như nhau”(Nguyễn Đức Phú Thọ). Một sự tỉnh táo
trong trái tim đa cảm. Chính vậy mà Huỳnh Thúy Kiều đã tìm được sự đồng cảm ở
người yêu thơ với những dòng thơ tràn nhiệt huyết:
“Những hồng cầu rỏ xuống từ máu ngư dân
Nhắm hướng trùng khơi rẽ sóng
Nước mắt đất liền khóc ngày biển động
Các anh vì Hoàng Sa – Trường Sa. Mẹ hạnh phúc đến nghẹn lòng…
…Biển Việt nam dài và rộng lắm
Vóc dáng, hình hài từ sóng khắc thành tên.”
(Em sẽ cùng mẹ ra thăm anh…)
Sóng ngàn trùng không vô hồn,
hiền hòa hay dữ dội theo nhịp thủy triều. Sóng mang màu anh linh của những hùng
binh năm xưa, của 64 người con của nước Việt ngoan cường chiến đấu quyết giữ
đảo, giữ biển Việt Nam yêu thương. Những câu thơ ít nhiều khuấy động lòng người
giữa cuộc sống bộn bề lo toan mà con người có khi chẳng còn một chút gì rung
cảm trước trời xanh, mây trắng chứ đừng nói hướng lòng về phía đại dương.
“Em viết cho anh từ phía cuối chân trời
Cửa Ông Trang, Bồ Đề cũng sục sôi uất nghẹn
Đất nước mình không thể để mất dù chỉ một cen-ti-mét biển
Em
nhường anh cho Tổ quốc thương yêu!”
Với Huỳnh Thúy Kiều, dù ở góc trời
nào đi nữa, nơi cuối đất cùng trời đi nữa, đắm say da diết nhớ người thương đi
nữa, tình tự của lứa đôi chỉ có thể tồn
tại, tỏa sáng trong tình tự Đất
nước, dân tộc.
Em
nhường anh cho Tổ quốc thương yêu!”
3. Chỉ
với ba bài thơ viết về biển đảo quả là còn quá ít nhưng “với một hồn thơ tươi mới, giọng thơ khỏe khoắn, phóng khoáng, nhưng
cũng đằm thắm của một nhiệt năng nữ tính…”, Huỳnh Thúy Kiều đã bước đầu
chiếm lĩnh tâm hồn người yêu thơ bằng những
câu thơ “…có lúc như sóng trào, có lúc
mênh mang cuồn cuộn... thúc giục một cách hối thúc.” (Trần Quang Quý). Đó
chính là tấm lòng thơ dạt dào, thiết
tha đáng trân trọng, tấm lòng thơ vì
biển đảo quê hương trong bối cảnh có kẻ đang “dấy động can
qua”, biển Đông đang không ngừng dậy sóng. Và câu hỏi của tác giả nữ trẻ này hẳn
sẽ khiến mỗi bạn đọc chúng ta hỏi lại mình chăng?
“Một câu thơ dài chưa viết nổi gửi Trường Sa
Thì Tổ quốc yêu từ
phía nào cho trọn vẹn?”
Xuân Lộc, 17/7/2012
Nguyễn Nguyên Phượng
(*) Bài đăng trên Tuần
báo Văn Nghệ TP.HCM số 220, 2012
(1)
“Đánh thức châu thổ” – Đọc Giấu anh vào cỏ xanh của Huỳnh Thúy Kiều, Trần Quang Quý (Báo
Văn Nghệ số 5, 4/2/2012).
(2)
“Một vài ghi nhận về thơ trẻ đồng bằng sông Cửu Long”, Nguyễn Đức Phú Thọ (Báo Văn nghệ TP.HCM số 180,
13/10/2011).
(3)
Tác giả Huỳnh
Thúy Kiều đã được tặng thưởng:
+ Giải Nhì cuộc thi thơ trên Web thotre.com lần
thứ nhất năm 2007
+ Giải thưởng của UB Toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam với tập thơ
Kiều Mây năm 2009
+ Giải C cuộc thi
thơ 2008 – 2009, Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội
(4)
“Góp đá xây dựng
Trường Sa ”, một phong trào lớn được nhân dân cả nước hưởng ứng do báo Tuổi Trẻ
phát động.
(5)
Nhà thơ Nguyễn
Thanh Mừng được Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội và Bộ Tư lệnh Hải Quân VN trao giải
A cho bài thơ “Hào phóng thềm
lục địa”.
Cuộc thi “Đây biển Việt Nam” do báo Vietnamnet phối
hợp với Hội Nhà văn VN, Hội Nhạc sỹ VN tổ chức từ 15/8 đến 15/12/2011. Nhà thơ
Lê Thị Mây đoạt giải Nhất; 3 giải nhì thuộc về các tác giả Nguyễn Việt Chiến,
Nguyễn Ngọc Phú và Trịnh Công Lộc; 2 tác giả đoạt giải Ba, 5 tác giả đoạt giải
Tư.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét