HQN: Nhà thơ Triệu Từ Truyền vừa gửi bài 2 trong loạt bài về Tương Tác. Hương Quê Nhà xin giới thiệu và mong quý độc giả góp ý để một luận thuyết độc lập có cơ may hoàn chỉnh. Xin cám ơn.
Nếu con người sống chỉ cần biết thỏa mãn
những nhu cầu sinh lý chắc chắn không có triết học, thế mà triết học ra đời từ
buổi bình minh của nhân loại? Vì con người khác những động vật khác là sớm tự hỏi: Tại sao tôi sống, tôi hiện hữu? Tại sao tôi chết? Sau khi chết tôi ở đâu hay
hoàn toàn tan biến? Sống để làm gì mà vui thì ít còn đau khổ triền miên? Kiếm
miếng ăn đầy lao nhọc, luôn bị ai đó đè đầu cỡi cổ, ai đó lừa gạt, phản bội,
xúi dại? Từ những tai ách vĩ mô như: bão lụt; hạn hán; núi lửa, tuyết lở, động
đất đến vi mô như: vi khuẩn, siêu vi gây bệnh dịch, bệnh trầm kha, kể cả hóa chất
vô cơ… Thao thức trước những khổ nạn ấy và tìm câu trả lời rốt ráo chính là triết
học.
Từ Tây sang Đông trong hàng vạn năm qua con người tin rằng mình
được sinh ra từ nhiều nguyên nhân hay do một nguyên nhân siêu nhiên nào đó,
nguyên nhân ấy là các thần linh hay do một thương đế. Cuối cùng vài ngàn năm gần
đây có vài học thuyết lý giải về con người, từ các tôn giáo đến các thuyết khoa
học đương đại
Từ quan niệm nguồn gốc
dẫn đến con người hiện hữu ra sao?
Tuy nhiên, hiện hữu
là gì còn tùy thuộc vào quan niệm của cộng đồng và từng cá thể?
Các triết gia phương
Tây thừa nhận hiện hữu của con người không tùy thuộc vào ý muốn con người. Theo
thần quyền cho rằng con người do Thượng đế sinh ra, theo duy vật con người là vật
thể khách quan. Tuy nhiên, khi Decarte nói
tôi tư duy với hàm nghĩa tôi hoài nghi tất cả, chỉ khi nào tôi dùng lý
trí chứng minh có thượng đế thì tôi mới tin. (nhằm phản bác tư tưởng cho rằng
thượng đế là không thể chứng minh, vì ở ngoài phạm vi lý trí của con người).
Decarte vận dụng duy lý để chứng minh bản thể là thượng đế, và vì vậy tôi chứng
thực có tôi, (cogito ergo sum) viết theo nguyên bản tiếng Pháp là “je pense
donc je suis”, (Cogito ergo sum - tôi tư duy là tôi hiện hữu), câu nói nổi tiếng
này đề cao ba ý nghĩa:
1/ Lý trí là hàng đầu,
đề cao chủ nghĩa duy lý
2/ Suy luận là phương
pháp duy nhất đúng của hiểu biết
3/ Dẫn đến lãnh vực
tinh thần quyết định tất cả.
Cho đến thời điểm ấy, Decarte là một bộ óc xuất sắc nhất, tạo ra bước ngoặt
tự quyết của con người, không mù quáng trước thiên nhiên và thần thánh.
Cùng đi trên lộ trình
tự khai phá đó, Albert Camus, trên nền tảng
triết học duy vật biện chứng nói chung,
nói riêng là triết học hiện sinh vô thần do Jean Paul Sartre khởi xướng,
Albert Camus, nhà văn triết gia và nhà hành động đã nói: “Je me revolte donc
je suis”-(tôi nổi dậy là tôi hiện hữu) – Đây cũng là một phát hiện lừng danh,
đúng cho chiều dài lịch sử của nhân loại tới tận ngày nay, một lịch sử người áp
chế và bóc lột người. Từ thương cổ ai cũng biết: người là chó sói của con người
(homo homini lupus).
Tuy nhiên, sự nổi dậy đó, kể cả từ Paris công
xã đến cách mạng tháng 10, từ các nước thuộc địa đến các bộ tộc thiểu số của mỗi
cộng đồng, nổi dậy đem lại vài thành tựu trước mắt song đâu cũng vào đấy, mạnh
được yếu thua, giàu nô dịch nghèo, quyền lực chi phối tất cả, nước nhỏ thần phục
nước lớn, Jean Paul Sartre trong tác phẩm Guồng máy (L'engrenage),) đã cảnh báo
nước nhỏ khó bề độc lập thật sự.
Như vậy phải chăng chỉ
tư duy thôi và nổi dậy thôi (bao hàm làm cách mạng) cũng không thể hiện hữu được!
Phải chăng nên tương
tác nhân sinh mới thật sự tồn tại? Nghĩa là tôi không chỉ tư duy, không chỉ
hành động mà tôi còn tương tác đầy đủ tôi mới hiện hữu được.
Với những thành tựu mới
của vật lý trên nền tảng của thuyết tương đối rộng của Albert Einstein và cơ học
lượng tử của Marx Plant dẫn đến thay đổi nhận thức từ nguyên tử đến vũ trụ, từ
hạ nguyên tử đến vũ trụ nhiều chiều không gian.
Từ bỏ chất liệu tư
duy cũ, con người cần nhận thức đúng đắn hơn về không gian cong và thời gian
cũng cong theo, nên phải hiểu lại diễn biến của lịch sử theo cách không chỉ là
một đường thẳng tuyệt đối. Đồng thời cũng cảm nhận hết nỗi bơ vơ từ một con người
đến một tinh cầu, kể cả một thiên hà vì tất cả đều nổi trôi trong khoảng không,
chẳng có chất ê-te nào trong không gian đỡ đần cả, tệ hại như cá phải bơi mà mất
tiêu môi trường nước vậy. Tại sao vật thể hiện hữu trong khoảng không trống rỗng
ấy được? Bởi vì những viên gạch nguyên tử không phải là khối lượng nhỏ nhất tạo
nên cấu trúc của vật thể, chính những hạt hạ nguyên tử với kích thước chỉ bằng
một phần triệu của electron, nhỏ hơn nữa
so với nguyên tử, ghê gớm hơn hạ nguyên tử chuyển hóa liên tục giữa hạt và
sóng, nghĩa là có lúc là khối lượng và có lúc chỉ là năng lượng, nói theo cách
người xưa là lúc có lúc không (sắc sắc không không), nên tự nó tồn tại không cần
nền, dù ấy là nền của khí ete như những nhà bác học trước đây tin như vậy. Ngay
nền nhà cứng chắc xét đến cùng cũng chỉ là những hạt ánh sáng (pho ton) mà
thôi, do tương tác điện từ tạo ra. Trong
nhân nguyên tử còn có lực tương tác mạnh (1) để cột chặt proton, neutron lại với
nhau, giữ cho “viên gạch” nguyên tử bền vững cấu trúc thành phân tử, tế bào cho
vạn vật tồn tại. Như vậy tương tác mạnh, hoàn toàn kềm chế tương tác điện từ
trong nhân nguyên tử giúp nhân không dễ dàng phân rã trong tự nhiên. Tương tự
như thế, trong nhân sinh tương tác bản năng dần dần bị những tương tác quyền lực,
tương tác tri thức và tương tác tâm linh chế ngự, chỉ giữ lại bản năng tốt, nên
từ hoang dã tiến dần lên văn minh.
Trong nhân sinh, các
tương tác luôn bên nhau để duy trì tồn tại của con người, có lúc nâng đỡ nhau,
có lúc triệt giảm mặt tiêu cực của nhau để tổng thể hiện hữu, tức là con người
sinh tồn. Có một thiền sư xuất thân là một
nhà vật lý người châu Âu có cảm nhận “nhìn
ra toàn bộ không gian chỉ là những hạt li ti di động dầy kín mà thôi!”. Nghĩa
là con người, động thực vật, công trình xây dựng, đất, đá, núi, sông… xét cho
cùng chỉ là những hạt hạ nguyên tử chuyển
biến cùng khắp. Với góc độ tự nhiên, ấy là những hạt tương tác của năm loại
tương tác vật thể: hấp dẫn; điện từ; mạnh; yếu và kích cỡ.(hạt Higs)
Tương tự như thế
tương tác nhân sinh tạo nên sự hiện hữu của cá thể và cộng động người.
1/ Tương tác bản năng: Theo định nghĩa phổ thông bản năng là hành vi tự phát, vốn có của sinh
vật trước một va chạm, kích thích trong môi trường sống, ý thức không chi phối
những phản ứng của bản năng. Tuy nhiên xét theo chiều dài lịch sử thì bản năng
cũng hàm chứa tập quán, quy ước cộng đồng vốn có, có thể xem là một loại ý thức
hóa thạch.
Freude nhấn mạnh
tương tác bản năng đến mức cường điệu, nó
quyết định mọi hành vi của con người ta, nghĩa là con người không khác gì con vật,
luôn hành động theo bản năng.
Theo tôi, phải chăng Freude không
thấy hết vai trò những tương tác nhân sinh? Freude có nhiều trang lý luận sắc
bén về bản năng, dù vậy ông không hề thấy rõ tầm quan trọng của nó. Bản năng quyết định sự tồn tại của nhân sinh
giống y như tương tác mạnh của nhân nguyên tử, nếu nhân nguyên tử bi phân rã
thì phân tử sụp đổ, cấu trúc tự nhiên bị đánh sập hoàn toàn, nghĩa là cộng đồng
nhân sinh bị xóa sổ.
Dù tương tác bản năng có vị trí
quan trọng như thế, nhưng nó không hề là tương tác độc tôn, không phải như
Freude cho rằng: “Ý thức như cái con rối mà vô thức và bản năng là kẻ đứng
sau giật dây, điều khiển mọi chuyện.” Bởi vì tương tác Mạnh có thể bị phá vỡ, thì
bản năng cũng có thể bị chế ngự hoặc xóa bỏ chúng hoàn toàn. Hơn nữa, có ý thức
là có tương tác tri thức, tích lũy kinh nghiệm và lưu giữ thành tựu khoa học,
công nghệ.
Freude
cũng như các triết gia trước đây đều nghĩ rằng nên tìm ra cái cốt tử là tìm ra
chân lý. Đó là sai lầm tệ hại lớn nhất của các triết gia trước khi có thuyết
tương đối rộng của Einstein và thuyết cơ học lượng tử của Marx Plant.
Như vậy
trong năm lực cơ bản tạo thành mô hình chuẩn, không có lực nào kém quan trọng
hơn lực nào, nên không có lực tương tác độc quyền trong tương tác nhân sinh.
Trong cá thể của lãnh vực nhân sinh bên cạnh lực tương tác bản năng là tương
tác tâm thức.
Tương
tác tâm thức là lực chi phối con người từ dòng năng lượng tâm linh. Song song với
nó là tương tác tri thức là lực chi phối con người từ sức mạnh của lý trí, sẽ
trình bày ở phần sau.
2/ Tương
tác tâm thức: Có thể nói ngay rằng tâm thức là cơ năng hiểu biết của
con người mà không cần sử dụng bộ óc. Tương
tác tâm thức tạo ra thiền định, tịnh tâm, trực cảm… là lực thúc đẩy con người ngộ
ra chân-thiện-mỹ, hoặc dẫn đến sáng tạo, nói chung giúp con người có hành vi
siêu phàm; tạo ra những tài năng kiệt xuất. Tương tác tâm thức là hiên tượng phổ
biến ở con người, tuy nhiên độ đậm đặc rất
khác nhau. Với những vĩ nhân, thi hào, văn hào, triết gia, nghệ sĩ sáng tác bậc
thầy luôn có nồng độ tương tác tâm linh rất cao. Tiếp theo là những nhà ngoại cảm,
người dự báo và những người có linh tính…
Tương
tác tâm linh tương ứng với lực tương tác yếu (dùng từ yếu để phân biệt với
tương tác mạnh), không phải nó là lực kém nhất của các lực tự nhiên trong mô
hình chuẩn của vật lý. Tương tác yếu không “yếu” chút nào hết khi nó có thể làm
phân rã một số nhân nguyên tử, phát tán neutrino (1), tạo ra ánh sáng của các định
tinh. Như vậy chính nó, tương tác yếu, tạo ra ánh sáng mặt trời, nuôi sống bao
sinh vật trên trái đất. Trong nhân sinh, Tương tác tâm thức tạo ra ánh sáng của tinh
thần, hình thành văn minh và văn hóa của nhân loại như luân lý, đạo đức,
mỹ học (cái đẹp)… như khái niệm nêu trên. Sau đêm dài Trung cổ ở châu Âu, người
ta gọi ngay sau đó là thời kỳ Ánh Sáng, vì tri thức và tâm thức được cởi trói.
Dù có vai trò cốt tử như vậy, phần lớn tương tác tâm thức
phải cùng song hành với tương tác tri thức để tạo ra cặp hợp lực tương tác nhân
sinh hoàn hảo. Hơn thế nữa, hai tương tác nhân sinh có tính vi mô trên, chỉ có ý
nghĩa khi con người đứng vững trên bề mặt hành tinh xanh, và cùng tồn tại trong
một cộng đồng nhân sinh. Do vậy, cần lý giải hai tương tác có tính vĩ mô của nhân sinh: tương tác tri thức và
tương tác quyền lực:
3/Tương tác tri thức: Tri thức là hiểu biết, biết và hiểu bằng trực quan
sinh động hoặc bằng nghiên cứu học tập. Tri thức là biết toàn thể lãnh vực hình
thành văn minh của nhân loại và hiểu toàn bộ kiến thức tích lũy của loài người
từ thượng cổ đến ngày nay. Đặc điểm của tương tác tri thức là thuộc tính cộng đồng,
toàn xã hội mới lưu giữ đầy đủ tri thức của nhân loại.
Tương tác tri thức hình thành nền khoa học,
công nghệ và các ngành có thuộc tính của duy lý, của suy luận. Không có tương
tác tri thức, loài người không có nền văn minh vật chất. Con người không hưởng
thụ được tiện nghi, phương tiện trong sinh hoạt hằng ngày, trong giao thông vận
tải, trong truyền thông… nếu không có tương tác tri thức. Kỳ tích hơn nữa là làm biến đổi gien; thám hiểm
vũ trụ; sử dụng tế bào gốc cứu các bệnh nhân v.v...
Tuy nhiên tương tác tri thức luôn luôn được
tương tác tâm thức tiếp ứng năng lượng, kể cả năng lượng từ vật chất tối dẫn đến
những thành quả vượt bậc kỳ diệu.
Tương
tác hấp dẫn (trọng trường) trong tự nhiên tạo ra trật tự cho mọi vật thể, từ
thái dương hệ cho tới trên một hành tinh, không bị xáo trộn để dẫn đến hủy hoại
lẫn nhau. Động vật được giữ chặt trên bề
mặt trái đất, quả táo của Newton
không thể bỗng dưng rơi ngược vào bầu trời. Mặt trăng không biến mất vào khoảng
không vũ trụ. Nếu thân cây nhờ gốc có vô số rễ cắm vào lòng đất nên nó không bị hất tung lên không trung thì con người cũng có hàng tỷ cái rễ vô hình (mắt thường
không thấy được), mỗi rễ là một hàng chuỗi hạt hạt hạ nguyên tử nối từ thân người tới tâm của trái đất. Do vậy
những nhà vật lý đặt tên Graviton là hạt boson của tương tác hấp dẫn. Cũng một
mô hình lực hấp dẫn đó, tương tác tri thức vận hành trong cộng đồng nhân sinh như trên đã nói.
Thế giới nhân sinh còn một tương tác nữa
để tồn tại: tương tác quyền lực.
4/ Tương
tác quyền lực:
Con
người cô độc như Robinson Crusoe thì không cần bàn về tương tác quyền lực,
tương tác quyền lực chỉ triển khai sức mạnh trong cộng đồng. Từ nguyên thủy các bộ tôc đã tổ
chức sơ khai, luôn có người chỉ huy trong một nhóm người, bên cạnh đó có phái
viên của thần linh, phù thủy của thời kỳ đa thần. Thế quyền trương nở dần lên thành bộ máy nhà nước, thần
quyền chuyển hóa rộng lên thành tôn giáo, đó là hai biểu hiện nổi bật của tương
tác quyền lực. Tương tác quyền lực còn vận hành ở những cộng đồng nhỏ hơn, từ
gia đình đến các hội, đoàn dân sự.
Trong tự nhiên đối ứng với tương tác quyền lực
là tương tác điện từ (3). Từ nhỏ đến già, con người ai cũng cảm nhận được quyền
lực như thấy biết dòng điện, điện soi sáng và còn biết bao việc hữu ích cho con
người. Nhà vật lý, còn biết rõ Tương tác điện từ cùng với những tương tác trong
mô hình chuẩn, là những nhân tố cốt tử tạo ra môi trường thiên nhiên, nghĩa là
tạo ra sự sống kỳ diệu.
Từ thượng
cổ đến hiện đại, loài người có tương tác quyền lực mới mở rộng cộng đồng, mới tạo
thành sức mạnh chống đỡ thiên tai, địch họa và những thế lực rình rập hủy hoại
nhân sinh. Tuy nhiên quyền lực bao giờ cũng là con dao hai lưỡi. Giáo chủ và
lãnh tụ anh minh luôn biêt tôn trọng tương tác vi mô: bản năng và tâm thức, đồng
nghĩa với tôn trọng tự do và quyền làm người của mỗi công dân và giáo dân.
Không thể xóa sạch bản năng con người để biến họ thành người máy, cũng không thể
nhồi sọ tri thức để nô dịch tư tưởng con người, dù nhân danh bất kỳ một thiên
đàng nào. Như vậy là không cho những tương tác vận hành cùng lúc, vừa cầm chắc
thất bại vừa biến thành tội đồ thiên cổ của nhân loại.
5/ Tương tác quy mô: Cộng đồng
nhân sinh phải có số đông nhất định nào đó mới giúp cho những tương tác trên
đây có tác dụng đáng kể. Tương tác quy mô trong nhân sinh là phản ánh tương tác
trương nở với hạt Higgs trong tự nhiên (thiên nhiên) (5). Những nhà vật lý đã nhận thấy có hạt hạ nguyên tử
tương tác với hạt Higgs trương nở gấp 40 lần; còn hạt ánh sáng (photon) khi tương tác với Higgs từ chỗ
không khối lượng trở thành có khối lượng,
trong hiện tượng siêu dẫn. Vì có khối
lượng nên photon chỉ có thể di chuyển trong một khoảng cách ngắn nhất định, khác
với tính chất của sóng. Ví dụ trong tương tác tri thức, nếu số ít nhận thức
đúng không làm cộng đồng hành động đúng được, ít ra phải hơn 50% số người của cộng
đồng.
Đến đây có thể kết luận: Hiện hữu là tương tác
đầy đủ. Phải chăng những học thuyết giản lươc chỉ nhấn mạnh một tương tác hoặc
hai, ba tương tác đều hủy hoại nhân loại? Cụ thể như sau:
1/ Chỉ
tương tác bản năng dẫn đến vô chính phủ, loài người trở thành bầy thú hoang dã;
2/ Chỉ
tương tác tâm thức dẫn tới con người sống trong hang động, ở rẻo sâu, núi cao dần
dần lụi tàn như loài khủng long;
3/ Chỉ
tương tác tri thức dẫn đến sùng bái khoa học, công nghệ; dẫn đến các tà thuyết như chủ nghĩa chủng tộc, chủ nghĩa bành
trướng, chạy đua vũ trang chế tạo bom hạt nhân, bom vi trùng… cuối cùng tự hủy
diệt sinh vật và trái đất; loài người tự sát;
4/ Chỉ
tương tác quyền lực dẫn đến sùng bái
lãnh tụ, giáo chủ, trương nở tham vọng vô hạn; trương nở chủ nghĩa khủng bố;
châm dầu vào lò lửa chiến tranh… cuối cùng xã hội là những trại lính, con người
là những nô lệ ở địa ngục trần gian.
Mỗi
tương tác nhân sinh đều cộng hưởng với nhau, đều là nhân tố hình thành hiện hữu
của nhân loại, những nhân tố đều có vai trò ngang nhau, vị trí quan trọng như
nhau. Nếu vì lý do nào đó, một nhân tố tương tác bị xem thường, lập tức xã hội
bị xáo trộn gây đại loạn, làm con người khốn khổ, ly tán. Đừng bao giờ dùng lý
trí can thiệp vào cách vận hành ngẫu nhiên của những nhân tố tương tác. Lịch sử
loài người đã minh chứng biết bao trí tuệ tư duy theo kiểu thủ lợi mà ngỡ rằng
đó là chân lý, gây tang tóc, khổ đau toàn cầu, cuối cùng những tà thuyết ấy
đương nhiên sụp đổ. Tôn trọng tương tác nhân sinh là thái độ nhân bản nhất.
Phải
chăng nên nói: “Tôi tương tác là tôi hiện hữu”.
Paksong,
cao nguyên Boloven, mùa thu 2014
Triệu
Từ Truyền
Chú
thích:
(1) Lực tương tác mạnh gắn kết quả trong hạt nhân nguyên tử và làm cho vật chất vững bền nói chung.
(2) Lực tương tác yếu chi phối toàn diện sự vận hành của
neutrino, làm cho một số hạt nhân nguyên tử phân rã và phát tán neutrino.
(3) Lực tương tác điện
từ diễn tả electron tương tác với proton trong hạt nhân nguyên tử để tạo nên các
nguyên tử và phân tử của các hóa chất trong bảng tuần hoàn Mendeleyev cũng như
của các tế bào và gen sinh vật...
(4) Tương tác hấp dẫn của Trái Đất tác
động lên các vật thể có khối lượng và làm chúng rơi xuống đất. Lực hấp dẫn
cũng giúp gắn kết các vật chất để hình thành Trái Đất, Mặt Trời và
các thiên thể khác;
nếu không có nó các vật thể sẽ không thể liên kết với nhau và cuộc sống như
chúng ta biết hiện nay sẽ không thể tồn tại. Lực hấp dẫn cũng là lực giữ Trái Đất
và các hành tinh khác ở trên quỹ đạo của chúng quanh Mặt Trời.
(5)
Khởi đầu tất cả đều không có khối lượng, do tương tác với trường Higgs mà vật chất mang khối lượng, nặng hay nhẹ tùy theo cường độ tương tác lớn hay nhỏ của chúng, càng tác động mạnh vật chất càng có khối lượng lớn.
Tương tác là cốt lõi của cuộc hiện hữu nhân sinh và tương tác cũng để đi đến chấp nhận điều xảy ra ngẫu nhiên ! không đồng nhất về kết quả ?
Trả lờiXóa