Gởi tặng
gia đình cô Sương làm nghề mò sắt trên kênh Tàu Hũ…
Gió từ
cầu Camlet thổi đìu hiu, cuốn theo một lớp mùi hăng hắc. Dòng kênh đen đặc nay
thôi không hục hặc ho từng cơn. Thi thoảng con nước trở mình khe khẽ giống như
có một đàn cá lớn, nghịch ngợm quẫy đuôi. Hai bên bờ kênh, những dãy nhà tạm của
công nhân lụp đụp đội lên. Như thường lệ, chiếc ghe gỗ mục nát từ từ cập vào bờ.
Một cô gái chừng 20 tuổi dừng mái chèo. Mái tóc cô bay ngược gió, xõa ra ôm lấy
gương mặt tròn vành vạnh. Bộ quần áo mốc meo, lem ngoem bùn lầy không che lấp vẻ
đẹp trong sáng của cô. Từng đường nét hài hòa trên gương mặt cô gái tỏa xuống
dòng kênh đen một luồng sáng loang loáng. Chiều nào tôi cũng ngồi trên những kè
đá trắng nhấp nhô. Đơn giản chỉ một lí do: Tôi muốn nhìn thấy cô gái nhỏ.
Trong
căn chòi lá liêu xiêu, bé gái thò đầu ra ngoài, cười nắc nẻ. Nhác thấy chị, bé
reo lên: “A! Chị hai về rồi”. Người mẹ cụt một chân, nhảy cò cò ra mạn bờ. Nước
da bà xám nghoét, hai má chảy xệ, nhão nhoẹt như lớp bùn đáy kênh. Mặt bà lúc
nào cũng nhàu nhĩ, hai con mắt sụp xuống như chỉ chực khóc. Người cha ì ạch kéo
lên bờ một bao sắt lụn vụn. Cả nhà cô gái xúm xít bên bao sắt vụn như những người
thợ săn vây quanh con thú vừa săn được.
Trưa
nay đang vác đá trên bờ kè, tôi bối rối khi nhìn thấy chiếc ghe của cô gái nhỏ
chầm chậm lướt qua. Gió phần phật, bật ngược chiếc nón lá ra sau, gương mặt cô
gái xuất hiện ở khoảng cách thật gần. Cánh thanh niên nhìn ngơ ngẩn. Họ huýt
sáo, gọi nhau ơi ới. Là người phát hiện ra vẻ đẹp mộc mạc của cô gái từ lâu
nhưng lần này, tôi không khỏi ngỡ ngàng như kẻ phàm phu nhác thấy bóng thiên thần.
Hôm nay, cô gái đi một mình. Chiếc ghe mắc kẹt giữa hai nhánh cây khô. Nước cạn.
Đáy kênh lồ lộ ra. Một nửa người cô gái ngập sâu dưới lớp bùn đen nhão nhoét.
Thao tác giống người cha, cô sục sạo tay chân trong lớp bùn tanh tao. Xung
quanh cô, rác rưới lềnh làng mặt nước. Những đợt gió mạnh, múc mùi hôi hám dưới
lòng kênh vãi tung tóe khắp nơi. Trông thấy cảnh ấy, cánh phụ hồ im bặt. Họ ngó
lơ chỗ khác. Cô gái không mảy may để ý đến xung quanh. Cô vẫn cặm cụi mò sắt.
Chốc chốc, cô gái xuýt xoa, rút ngón tay lên nhăn nhó. Tôi biết tay cô quệt
trúng mảnh chai. Lòng tôi se sắt lại, nóng bừng như ăn cả bao ớt. Quá nửa trưa,
nắng xuống đốt nóng cả dòng kênh. Nước lên. Cô gái nhanh tay chèo. Ra giữa
dòng, chiếc ghe chao đảo. Buông mái chèo, cô ôm bụng, mặt nhợt nhạt. Trống ngực
tôi đập liên hồi. Tôi buột miệng gọi to. “Em sao vậy?”. Đáp lại lời tôi, cô gái
cố xua tay, lắc đầu ra hiệu không sao. Chiếc ghe tròng trành, lắc lư như gặp
vũng nước xoáy. Cô gái nhỏ hết ngả bên trái lại nghiêng bên phải. Tôi không rời
mắt khỏi chiếc ghe cho đến khi cô vào được bờ. Suốt buổi chiều, tôi ra bờ kè chờ
đợi nhưng không thấy cô.
- Con
sao vậy?
Người mẹ
hoảng hốt khi thấy đằng sau quần cô, máu đỏ ướt từng mảng. Cố mở một nụ cười gượng
gạo, cô lúng túng.
- Con đến
tháng mà quên mang…
- Sao
tháng này mẹ thấy con bị liền liền vậy. Hai tuần rồi giặt quần cho con mẹ đều
thấy có máu. Con nói thật cho mẹ biết đi. Con bị sao vậy?
- Chắc
con bị rong kinh, ít bữa là hết. Không sao đâu mẹ.
Cô giấu
mẹ những cơn đau quằn quại. Nhưng bằng linh cảm của một người mẹ, bà nhận ra có
điều gì đó không bình thường đang xảy ra với con gái. “Hôm nay mẹ dẫn con đi
khám bệnh. Con cứ ra máu như vậy, mẹ lo lắm”. Mặt bà trĩu buồn. Ánh mắt bà nôn
nao nhìn con. Cô miễn cưỡng theo mẹ đến bệnh viện. Căn phòng trắng toát, lạnh lẽo
như những phiến đá vôi khiến cô rùng mình. Qua vài lần siêu âm, xét nghiệm, bác
sỹ gọi cô vào phòng riêng. Ông nhìn cô thật lâu, giọng ngập ngừng: “Chú không
muốn giấu con. Những lời chú sắp nói ra sẽ khiến con khóc nhưng là bác sỹ chú
không thể giấu bệnh nhân tình trạng bệnh. Con phải hết sức bình tĩnh… Con bị bệnh
ung thư cổ tử cung giai đoạn cuối…”. Giọng bác sỹ lướt qua vành tai cô lúc nặng,
lúc nhẹ. Và cuối cùng hai tai cô ù đặc, lùng bùng như có kiến chui vào. Cô
không còn nghe thấy gì nữa. Tại sao chính cô lại mắc phải căn bệnh quái ác này?
Có phải đó là kết quả của bao năm cô ngập ngụa dưới những dòng kênh đen, nồng nặc
rác thải và mùi hôi. Cô thất thểu lê từng bước ra ngoài hành lang. Từ xa, cô trộm
nhìn dáng mẹ. Bà đang lò cò một chân, dáo dác tìm cô khắp các dãy phòng. Thi
thoảng hụt chân, bà suýt ngã. Nước mắt cô ri rỉ ra hai khóe. Cô phải nói sao với
mẹ về căn bệnh đây? Mẹ chỉ có một chân, nếu nghe xong có lẽ mẹ không đủ vững để
đứng được. Cô đưa tay áo quệt hai dòng nước mắt thi nhau trượt dài trên má. Cô
vùng chạy thật nhanh như một đứa trẻ. Gương mặt ráo hoảnh, cô mở miệng thật rộng.
“Bác sỹ bảo con bị rong kinh. Uống hết số thuốc này là ổn..”. Da mặt giãn ra,
người mẹ cười tươi tắn. “Mẹ biết con sẽ không sao mà”.
Dạo gần
đây, cô hay nhìn tôi mỉm cười. Mỗi lần chèo ghe qua chỗ tôi, cô gái lại khe khẽ
hát một vài câu rời rạc, đôi khi chắp nối lung tung. Giọng cô trầm và trong veo
vẻo. Một góc miền quê lắng lại nơi cô, cứ mỗi lần nhìn cô, tôi lại nhớ quê đến
nôn nao. Gió tạt chiếc ghe sát bờ kè. Tôi mừng rơn. Biết bao ngày chờ đợi, nay
tôi mới có dịp trò chuyện với cô gái nhỏ. “Em ốm và xanh đi nhiều. Công việc cực
quá phải không em?”. Sửa lại chiếc nón lá xộc xệch, cô gái thoáng buồn. “Tại dạo
này em ít ăn…”. Cô trả lời gọn lỏn và đưa chân đẩy mái chèo thật nhanh. Tôi đứng
xớ rớ, bứt rứt trong người vì không biết đã nói câu gì làm cô gái phật ý bỏ đi.
Mùa mưa
sắp đến, gió cứ lừng lững như lực sỹ, chỉ chực quăng quật đồ đạc của mọi người
xuống kênh đen. Một tấm tôn trên mái chòi của gia đình cô bị gió hất tung lên
không. Trên nóc chòi, khoảng không hở ra rộng ngoác. Gió luồn vào trong chòi,
cha cô nằm trùm mền, rên rỉ từng hồi. Cơn ho khan rút sạch sức lực của ông. Suốt
tuần nay, ông chẳng ăn gì ngoài cháo. Mẹ cô ngồi đơ như khúc gỗ mục. Mắt bà
vàng đục như nước sông mùa lũ. Gần đây, chồng bệnh, nhà túng thiếu, bà hay nổi
cáu. Chị hai đi mò sắt, chỉ có mình Út ở nhà chơi. Bao nhiêu bực tức bà trút hết
lên đầu con bé. Đến bữa cơm, không thấy Út, bà gọi treo trẻo. Vừa thấy con, bà
xách cây quất vùn vụt. Bà tru tréo: “Từ mai trở đi mày theo chị hai đi mò sắt
nghe con. Suốt ngày lêu lổng. Mày liệu hồn với tao”. Kéo bao sắt lên đến mạn bờ,
một cơn đau âm ỉ kéo dài. Vấp phải cục đá, cô ngã dúi dụi xuống đất. Ôm bụng
xuýt xoa, cô loạng choạng đứng dậy. Cô cố giữ cho bước chân thật vững. Những giọt
máu lấm tấm in trên bãi cỏ xanh. Từ xa, nghe đến hai tiếng “mò sắt”, cô cuống
cuồng.
- Út không đi đâu cả.
- Hết gạo
rồi. Không đi làm ở nhà mà ôm nhau chết à! Nó lớn rồi, tập làm cho quen đi.
- Con
nói bao nhiêu lần rồi. Có chết đói cũng không cho em đi mò sắt.
Bao
nhiêu bực dọc, mệt mỏi trong người dồn lên tận cổ. Bà trút một hơi.
- Ừh. Chị
em mày lớn rồi, xấu hổ, không dám đi mò sắt. Mai để đó tao đi. Có một chân tao
cũng làm được…
Hai chị
em rươm rướm nước mắt. Cô thút thít.
- Nghề
này không có tương lai, mẹ đừng để em làm. Ít bữa nữa, con cũng lên bờ phụ quán
cơm cho người ta.
- Ngay cả
mày cũng muốn bỏ cái nhà nay đi. Đã vậy chúng mày biến hết đi. Mặc kệ hai đứa
già này sống chết ra sao?
Nước mắt
phủ đầy mặt, cô quay vội đi. Làm sao để mẹ hiểu khi mà căn bệnh ung thư như lũ
sâu mọt, mỗi ngày đang rút dần sự sống của cô. Cha ốm. Nhà hết gạo. Một chân bị
cụt, mẹ tự dày vò mình bởi suy nghĩ mẹ là người tàn phế, là gánh nặng áo cơm của
cả gia đình. Mẹ sẽ ra sao nếu biết cô con gái, chỗ dựa duy nhất của cái gia
đình khốn khổ này đang nhận án “tử hình”. Từng ngày mẹ sẽ khóc cạn nước mắt khi
chứng kiến cái chết lạnh lùng đến gần con gái. Cô cố giấu những tiếng nấc ừng ực
trong cổ. Giọng cô khan khản.
- Con
quyết định rồi. Hai ngày nữa, con sẽ đi phụ quán cơm cho người ta. Mỗi tháng
bao ăn ở, còn lại tiền lương con gởi về cho mẹ.
- Giờ
mày lớn rồi, muốn đi đâu thì đi. Tao không quản được.
Cả tuần
nay, dòng kênh đen kìn kịt hẳn đi. Nước kênh lặng tờ, đám rác ứ đọng lại trông
như một dòng sông chết. Chiều nào tôi cũng ra bờ kè hóng gió và chờ đợi. Chiếc
ghe xám xịt lừ lừ lướt qua, chở theo một ông già lọm thọm, người xanh chành như
đám bèo tây. Tôi cố nhìn thật kỹ nhưng chỉ thấy mỗi mình ông già, không thấy cô
gái gái trẻ đi cùng. Ngày trước có con gái bên cạnh, ghe trôi qua mặt lũ thanh
niên chúng tôi. Ông già vênh váng, ra vẻ tự hào khi có con xinh đẹp. Nay ngược
lại, ông thường cúi mặt lầm lũi. Trước có con gái chèo ghe, mò được cục sắt to
bản, ông giơ lên cao khoe với con. Hai cha con họ cùng cười sằng sặc. Nay có vớ
được vài cục sắt, ông cũng lẳng lặng quăng cái “xoảng” vào thùng. Gương mặt ông
rúm ró, teo héo như lá khô. Có vài lần, ông già chèo ghe ra mại ngoài bến cảng,
ông cắm ghe vào một góc. Lần đầu tiên, người ta thấy ông lên bờ. Ông rảo quanh
các quán ăn rồi lại thui thủi xuống ghe. Từ ngày con gái đi, hôm nào mò sắt,
ông cũng tranh thủ ra bến cảng tìm con. Ông hỏi thăm mãi nhưng chẳng ai biết có
cô gái nào tên Thường cả.
- Nhanh
tay lên mày. Con gái gì mò thấy sợ. Mướn chục đứa như mày chắc tao sớm đóng cửa.
Tiếng
bà chủ quán cơm quát nạt um sùm. Lau nhưng giọt mồ hôi rỉ rả trên trán, cô cố
nén cơn đau quặn thắt quanh bụng. Hai chân đá vào nhau xiêu vẹo, cô chếnh
choáng như người nốc rượu quá đô. “Keng”, tiếng chén bát rơi xuống nền nhà, va
vào nhau rổn rảng.
- Cái
con này, mày làm ăn vậy hả?
- Cháu
xin lỗi. Nay cháu bị trúng gió nên mệt quá.
Bà chủ phẩy
tay lia lịa. “Chiều lấy lương rồi nghỉ đi. Nhận mấy đứa như mày vào làm, suốt
ngày bệnh hoạn, phiền phức quá”. Cầm tháng lương trên tay, cô liêu xiêu bước
đi. Nước mắt cô bắt đầu rơi lã chã. Hôm qua vô tình gặp bà mua ve chai, cô
phong phanh nghe cha bị bệnh hen hành, cả tuần rồi không đi mò sắt. Mẹ cô lò dò
một chân đi lượm bịch nilon quanh vỉa hè. Nghĩ đến cảnh bé Út ngồi nhễu nhão nước
miếng vì đói còn cha nằm ho khục khặc cả ngày lẫn đêm. Mùa mưa đến, căn chòi thủng
trước, dột sau. Đêm đêm, mẹ cô phải quấn áo mưa ngủ trên chiếc ghe mục. Nước mắt
cô trào ra. Một cơn đau dài lan tỏa khắp cơ thể. Hai cánh tay cô khẳng khiu như
hai trái so đũa, bấu chặt lấy cạnh giường. Cô tưởng như mớ nội tạng trong người
đang bục vỡ từng mảnh. Cô gục mặt xuống giường, để mặc nước mắt ứa dài khắp mặt.
Lần tìm viên thuốc giảm đau, cô nằm yên trên nền gạch lành lạnh, mặc cơn đói
dày vò từng giờ. Nhìn quanh, dãy trọ trống hơ, trống hốc. Lúc này đây, cô thèm
ăn một bát cháo nóng do chính tay mẹ nấu. Cô thèm cảm giác được mẹ gãi rân rân
sống lưng hay luồn tay vào từng lọn tóc. Từ nay cô sẽ chỉ ăn một bữa, tháng
lương này phải nguyên vẹn về đến tay cha mẹ cô. Tưởng tượng đến bữa ăn ngon miệng
của người em và nụ cười giòn tan của nó, cô khe khẽ mỉm cười. Bên dưới ống quần
cô, máu thấm đỏ nền gạch. Niềm vui tinh thần đã át dần cơn đau thể xác. Cô bắt
đầu buồn ngủ. Đầu cô nặng trĩu. Cả cơn đau lẫn cơn đói thôi không còn hành hạ
thân xác còm cõi của cô nữa. Cô lịm dần trong một giấc mơ màu hồng. Trong mộng
mị, cô biến thành con bướm nhỏ bay quanh một vườn hoa dìu dịu hương thơm. Rồi bất
chợt chú bướm bay lên cao, cao mãi và hóa thành một vầng mây trắng, lan tỏa ra
khắp bầu trời. Cô ra đi nhẹ nhàng và thanh thản như một vầng mây.
Sáng
nay, người mua ve chai gởi cho ông già mò sắt một bức thư của con gái. Trong
chiếc phong bì trắng trẻo, có kẹp 1 triệu đồng được xếp thẳng thớm. Dòng chữ
hơi nhòe, thi thoảng có sai chính tả nhưng ông đọc và hiểu được hết. Bao nhiêu
năm nhìn con lớn lên, ông hiểu từng từ con ông nói dù đôi khi câu chữ có lấp lửng.
Buổi chiều trên dòng kênh đen, gió vờn lên từng hồi. Một mái tôn bay vèo vèo
theo gió. Túp lều rệu rạo hẳn đi. Bà vợ ngồi trên tấm phản cũ xì, lỗ rỗ vết thủng.
Không hiểu sao hôm nay, ruột bà nóng cồn cào như có ai xát muối. Thấy khuôn mặt
chồng hồ hởi, bà phát bực thêm. Từ xa, ông reo mừng như trẻ con được quà.
- Bà xem
tôi đem về cái gì này?
- Có cái
gì thì nói đại đi. Tôi ghét phải đoán lắm.
- Con
Thường…
Bà nhảy
dựng lên, miệng lắp bắp.
- Ông
tìm thấy con Thường rồi à!
- Từ từ
để tôi nói cho mà nghe. Con Thường vừa gởi cho hai ông bà mình một lá thư kèm
theo một triệu đồng nữa. Ra chỗ sáng đi, tôi đọc cho bà nghe. Nó lên bờ làm cho
người ta vậy mà lại tốt.
Đôi mắt
nhấp nhem, ông cố nuốt lấy những dòng chữ mập mờ. “Cha mẹ đừng lo cho con. Con
đã kiếm được việc làm ổn định. Người ta bao ăn ở nên tháng nào con cũng dư phần
tiền lương. Bán quán cơm, đồ ăn nhiều lắm, con lơn được mấy ký. Con còn học được
cách nấu ăn. Hôm nào về nhà, con sẽ nấu vài món thật ngon đãi cả nhà…”. Hai ông
bà cười tủm tỉm theo từng dòng thư. Ngó thấy con gái út quần áo lấm lem bùn lầy,
mặt mày bịu xịu. Bà nhanh nhảu quẩy giỏ đi chợ. Bà nghĩ thầm “Đã lâu rồi mình
không để ý đến con Út”. Hôm nay biết tin con gái lớn vẫn khỏe, bà nhẹ nhõm cả
người.
Trên bờ
kênh, một người quen vẫy tay lia lịa. Bà nhướng mắt lên nhìn. Người phụ nữ đi
như chạy, thở hùng hục, miệng mếu máo: “Chị Mười ơi! Con Thường nhà chị…”. Mỗi
lần nghe đến tên con gái, mặt bà lại ngây ra, miệng bà há hốc, lưỡi líu lại:
“Con Thường nó làm sao vậy cô?”. Người phụ nữ thở một hơi thật sâu, cố lấy lại
bình tĩnh. “Cháu nó chết rồi chị ơi!”. Bà đổ sụp xuống như cái cây vừa bị đốn gốc.
Giỏ đồ ăn lăn lốc xuống đáy kênh đen ngòm ngõm. Bà nói bằng tiếng gió trong cổ.
- Con
tôi sao mà chết…?
-Tôi
nghe người trên đó họ bảo cháu bị bệnh ung thư cổ tử cung giai đoạn cuối. Nó sợ
liên lụy hai bác nên trốn xuống Bình Dương làm.
- Ai nói
với cô là con Thường nhà tôi? Nó vừa viết thư về, bảo vẫn mạnh khỏe còn lên ký
nữa mà.
- Trời ạ!
Chủ nhà trọ họ đưa nó vào nhà xác bệnh viện rồi. Cháu tôi ở gần đó nhắn tôi báo
cho gia đình chị biết, lên mà đưa con về. Ai dám lấy cái chết ra mà đùa hả chị.
- Khốn nạn
con với cái. Sao bị bệnh mà nó lại giấu tôi. Thường ơi! Có đói khát, mẹ cũng lo
cho con rau cháo qua ngày được mà. Sao con lại âm thầm chịu đựng bệnh tật một
mình. Con ơi là con!
Bà
không còn đủ mạnh mẽ để lóc cóc bước đi bằng một chân. Lần đầu tiên kể từ khi bị
tai nạn phải cưa bỏ chân, bà bò lê lết dưới mặt đường. Nước mắt bà ràn rụa khắp
mặt. Tiếng nấc không bật ra ngoài được, cứ ừng ực trong cổ. Nụ cười trong trẻo
và câu nói cuối cùng trước khi đi làm xa của con gái cứ váng vất trong đầu bà.
“Con không sao đâu. Trời ơi! Khốn nạn thân con tôi. Nó bệnh nặng mà phải nhắt
nhín tiền gởi về cho cha mẹ”. Nghĩ đến cảnh con gái trước khi chết còn phải nhịn
đói, nhịn khát, nước mắt bà đua nhau chảy dài khắp mặt. Những ngày sau đó, trên
dòng kênh đen, người ta nghe tiếng một người phụ nữ ngồi khóc vật vã từ tờ mờ
sáng đến tận đêm khuya.
Chiếc
thuyền giấy đựng những bông hoa hồng trắng muốt lững thững trôi ra sông Sài
Gòn. Tôi ngắm nhìn con thuyền nhỏ mà nhớ cô gái đến nao lòng. Từ nay, trên dòng
kênh đen tôi không bao giờ thấy em nữa. Gần đó, cha mẹ cô đang lúi húi nhổ những
chiếc cọc gỗ của căn chòi cũ. Ông nhìn tôi ngập ngừng: “Dù sao cũng cảm ơn chú
đã giúp đỡ tôi ít vốn. Từ nay nhà tôi bỏ luôn nghề mò sắt. Cái nghề nghiệt quá
chú ơi! Cả nhà lên bờ bán vé số, sẵn xin cho con Út vào lớp học tình thương. Hồi
còn sống, ngày nào chị hai cũng nhắc tôi cho nó đi học”. Giọng người đàn ông
chùng xuống.
Quá trưa,
nắng lấp loáng cả dòng kênh. Dòng nước đen ngòm được phủ lên một lớp áo nắng
vàng sóng sánh. Gia đình người đàn ông mò sắt đã đi khuất tự bao giờ, để lại
trên nền căn chòi cũ những tấm nilon rách nham nhở. Bên dưới, dòng kênh đen vẫn
vặn mình chảy miết như chưa hề cõng những mảnh đời bé nhỏ trên lưng.
N.N (TP. HCM)
Khóc thân phận người. Đọc xong, một nỗi đau lan tỏa khắp người. Tác giả đã thành công với truyện ngắn này.
Trả lờiXóa