Nhà văn trẻ Vũ Thị Huyền Trang
Sống
ở thành phố mãi rồi cũng sẽ mắc nhiều thứ bệnh. Đáng sợ nhất vẫn là những loại
bệnh truyền nhiễm mà phạm vi lây lan và hậu quả của nó thật khôn lường. Sáng
chạy thể dục tạt ngang qua chợ đầu mối chọn mua mấy mớ rau, nghe lẫn đâu đó
trong tiếng ồn ào chợ búa như có ai than “Ở Hà Nội miết rồi thấy thèm điên đảo
miếng cá kho nồi đất đun trên bếp củi”. Luồn qua cuối chợ mặc cả mua mấy trái
chanh, thấy con nhỏ bán hàng tựa ké bờ tường người ta ngủ gật. Nó ngủ mà miệng
há ra thở, ngáp ngáp như loài cá đớp oxi. Định không gọi để nó ngủ tiếp nhưng
thấy cái nắng gắt mùa hạ đã bắt đầu thò cái lưỡi dài liếm dần đến nửa mẹt
chanh, nên vừa nhéo nó vừa càm ràm nắng. Nó tỉnh dậy cười lơ ngơ, cái cười hồn
nhiên nhất giữa buổi chợ búa kim tiền. Nhìn nó lựa mấy trái chanh mọng nước dúi
vào túi rau trên tay chị, chị cười bảo:
-
Đêm không được ngủ đủ giấc hay sao mà sáng bảnh mắt lại ngủ gật giữa chợ thế
này?
-
Trời ơi, bao nhiêu năm xuống phố có đêm nào em ngủ no giấc đâu chị. Cứ trằn
trọc rồi trắng đêm hoài.
-
Chắc tại nhớ quê phải không cưng?
-
Đâu có. Tại em sợ. Cái cửa xóm trọ tuềnh toàng quá, nghiện ngập lại nhiều, đêm
em lo chúng lấy mất cái xe cà tàng thì em lấy gì chạy chợ. Phòng trọ lại chật
quá, cả chục người đút nhét phải nằm nghiêng mới đủ thì chỗ đâu mà nhét xe.
Phải chi ở quê, xe cứ vứt ngoài cổng cả đêm cũng chẳng ai dòm. Mà tụi em thì
chẳng khi nào có tiền để thuê một chỗ cho tươm tất.
Chị
định an ủi vài câu nhưng may thay cái mớ ngôn từ đối đáp phòng vệ hời hợt đầu
môi hình như đã kịp thụt vào. Con nhỏ với cái xó chợ tanh nồng, khăm khẳm mùi
hỗn tạp này đâu cần đến mớ ngôn từ hoa mỹ bóng bẩy như một thứ sản phẩm công
nghiệp không hơn. Cái nó cần là mấy mẹt chanh ớt, tỏi gừng bán nhanh không quá
trưa nắng lên sẽ héo. Mong cho cái đám thu vé chợ không kì kèo tăng thêm mấy
đồng vì cái lí do rất chi ơi hỡi “ê! Xăng tăng vé chợ cũng tăng”. Nghe chẳng có
gì ăn nhập với ba mét vuông xó xỉnh đủ ngồi thu tròn và chồng các mẹt lên nhau
sao cho không chạm sang địa phận của bà bán rau bên phải, mụ bán cá bên trái.
Nếu không thì chịu khó lót dạ bữa sáng bằng đủ thứ thập cẩm trên đời tuôn ra từ
mồm các mụ. Nếu có lỡ miệng càm ràm rằng xăng tăng đâu ảnh hưởng gì đến vài mét
đất thì ngay lập tức có kẻ trợn mắt quát tháo om xòm “không bán thì biến, đang
còn khối kẻ xếp hàng mua chỗ ngoài kia”. Mấy chuyện đó đâu khó gặp gì ở hàng
trăm xó chợ trôi nổi khắp Hà thành. Chị nghĩ vậy nên tặc lưỡi mở ví tìm tiền lẻ
ra trả tiền chanh thì thấy mình bị xô bắn ra. Một bà ục ịch ngân ngấn mỡ sấn sổ
vừa bới hành vừa mặc cả. Con nhỏ cười bảo:
- Cháu
bán quen lâu nay rồi, đâu có thách giá ai mà cô mặc cả làm chi.
Bà
ta nguýt dài, cầm mấy củ hành đi rồi vứt lại vài đồng tiền lẻ. Con nhỏ lắc đầu
thở dài than sao người ta giàu thế mà lại bớt xén của người nghèo vài trăm lẻ.
Chị cười buồn, ừ chuyện đó cũng có gì lạ đâu em…
Chị
len qua mấy ngõ nhỏ để về nhà, lại bắt gặp bà cụ tóc bạc ngồi trong nhà nhìn
người đi đường qua chiếc cửa sắt luôn án ngữ. Có lẽ các con bà đã đi làm từ
sáng nên nhốt bà ở trong nhà từ ngày này qua ngày khác. Lần nào gặp cũng thấy
cụ nhìn chị cười, nhưng lần nào cũng bước một chân qua cánh cổng đó rồi chị mới
nhận ra. Về đến nhà chị cứ lẩn thẩn nghĩ chắc cụ buồn không có người trò chuyện
nên ra đó ngồi cho đỡ cô đơn. Chị dặn mình mai đi qua sẽ đứng lại vui với cụ đôi
lời. Nhưng ngày mai nếu có qua đó chị vẫn sẽ lại đi qua, miệng muốn cười mà
cứng đơ, muốn nói mà lời thụt vào trong, muốn dừng lại mà chân cứ vội vàng như
quán tính. Chị tự hỏi mình sợ cái gì? Sợ bà cụ lẩm cẩm hỏi toàn chuyện vẩn vơ?
Sợ lỡ nhà cụ mất cái gì biết đâu người xung quanh lại bảo sáng nào cũng có
người đứng lại hỏi dò bà cụ? Sợ con cháu cụ nhìn thấy có khi họ chẳng vui, ở
thành phố này biết ai vào ai mà tin tưởng? Rồi thì chị sợ đủ thứ như thể chị
không từng được sinh ra trong văn hóa làng xã ở một vùng quê.
Nơi
chị lớn lên những ngôi nhà thường không cửa, hàng rào thường là mấy cành rong
cắm xuống lấy chỗ cho dây bầu dây bí leo lên. Cây nhà ai có quả thì cả xóm ăn
chung, rau nhà ai xanh vườn thì năm bảy nóc nhà có bát canh ngon. Hồi đó bố hay
đi cất vó tôm ngoài sông, thỉnh thoảng lại sai chị xách cho nhà bác Ba xâu cá,
nhà thím Hạnh vài lạng tôm. Chị chạy loi nhoi qua mấy rặng rào, chẳng thấy ai
có nhà, cứ chui vào bếp cho cá vào xong đậy lại kẻo mèo nó tha đi. Hồi đó mẹ đi
chợ về đến đầu làng là mấy cô bác hỏi hôm nay mua gì, ăn gì, mẹ khơi khơi kể cả
trăm nghìn chuyện. Giờ xuống phố đi chợ người ta không quen nhìn vào làn nhau,
càng tránh quan tâm chuyện nhà người ta ăn gì, làm gì. Lúc mới theo chồng về
phố chị vẫn bê nguyên cái thói người quê. Ra chợ gặp ai cũng chào, chuyện gì
cũng hỏi nhưng vừa bước chân đi thấy có mớ ngôn từ nào đó lùng nhùng sau lưng,
những tiếng cười lợn cợn nên cứ thấy điêng điếng trong lòng. Rồi có lúc chị
cười mà bị ngó lơ, chị muốn làm thân mà người ta cảnh giác dè chừng. Từ đó chị
quen nuốt lời vào bụng, cất nụ cười trong bờ môi mím chặt, đôi chân vốn quen
thong thả giờ thúc giục đi nhanh. Thỉnh thoảng cũng thấy ngôn từ lạo xạo trong
vòm họng, cứng như sỏi đá. Rồi thôi…
Nhà
anh ở phố. Lần đầu về thăm chị cứ thắc mắc hoài vì cái hàng rào cao quá, sống
dưới tầng một là không nhìn thấy đường, không thể đưa tầm mắt ra xa mà quan sát
xung quanh. Anh cười bảo tường cao cho đỡ người dòm ngó. Chị về làm vợ anh mới
hay tường cao không chỉ để che chắn thiên hạ mà còn để nhốt kín chính mình.
Nhiều hôm nhà vắng quá lại nhớ quê nên chị hát, nhưng tiếng hát vướng lại nơi
tua tủa mảnh sành nên bị cắt vụn ra như chỉ. Chị sinh con rồi hát ru, tiếng ru
va vào bức tường vỡ nát không làm sao có được tiếng vọng mênh mông thoát ra
ngoài để hòa lẫn đất trời. Tính chị dễ tủi thân nên cứ thương con thiếu thốn,
đến ngay cả lời ru cũng không đủ rộng dài. Chị sợ bức tường rào đến mức đòi
chuyển phòng ngủ của hai vợ chồng lên tầng hai. Với tầm cao này chị mới có thể
nhìn thấy cụ già nhà bên trái sáng nào cũng dậy thật sớm nghe đài, tưới hoa và
thưởng trà ngoài ban công đẫm sương. Cạnh đó là nhà đôi vợ chồng đẹp lắm, chồng
bảnh bao mà vợ lúc nào cũng tươm tất sang trọng. Nhưng nhà lại có một đứa con
tật nguyền, chị cứ thắc mắc hoài sao chẳng bao giờ thấy người mẹ tự tay đút
cháo cho con. Rồi có tối nằm cạnh anh chị hỏi nhà hàng xóm bên phải làm gì mà
cứ thấy người vào ra tối ngày. Anh cằn nhằn đàn bà sao lắm chuyện, người ta có
buôn heroin cũng mặc, mình biết chuyện mình thôi. Ừ, chuyện mình là trong cái
bức tường bao quanh này đã bao lâu rồi vợ chồng chưa nói với nhau đến ngọn câu?
Lời chưa mở ra đã cắn đứt bằng hai hàm răng cắn chặt. Đến ngay chuyện cái ổ cắm
nồi cơm hỏng, cái bóng trong nhà vệ sinh hư chị cứ định nói rồi lại tặc lưỡi
thôi, tự mình làm cho nhanh. Ngôn từ bỗng nhiên nặng như đá ong, lôi hoài không
bật ra khỏi miệng. Cơn cớ vì đâu?
* * *
Chị
từng rất yêu anh. Ngày anh còn học trường sỹ quan trên Sơn Tây, tình cờ một lần
anh bắt xe qua cầu Trung Hà chơi rồi gặp chị. Sau này hỏi sao hồi ấy yêu? Anh
cười bảo tại thấy chị dễ thương, anh hỏi đường vào nhà bạn lắt léo tít hút phía
xa, sợ anh lạc, chị bảo ngồi lên xe chị chở. Giờ nghĩ ra chị thấy, hình như hồi
đó yêu hóa ra chỉ vì anh dễ tin người. Giờ chúng ta không dễ tin nhau, ngay cả
người thân cũng dè chừng nhau đến từng hơi thở, từng cái nheo mày. Chị ngày xưa
cũng khác, chị từng tin anh nên bỏ quê về phố, bỏ đi dạy ở nhà coi sóc xứ sở
trong vèn vẹn bốn bức tường rào. Rồi từng ấy tháng năm mỗi ngày nói bớt đi một
câu, nuốt bớt đi một chữ, ngậm miệng nhiều hơn cười. Để có đêm tỉnh giấc giật
mình thấy chồng ngủ há miệng như con nhỏ bán chanh ớt ngoài chợ, như loài cá há
miệng đớp oxi. Chị nhìn vào cái miệng há hốc của chồng thấy có gì đó khắc
nghiệt, như thể các ngôn từ ngậm miệng suốt một ngày dài giờ được giải thoát.
Cơ thể giống như một cái hang, người ta chôn kín yêu thương, thù hận, toan tính
và cả ngôn từ trong đó. Khi cái hang mở miệng chẳng khác nào núi lửa. Rồi chợt
nghĩ biết đâu lúc ngủ mình cũng tư thế đó. Và trong căn nhà này bò lổm ngổm
những ngôn từ. Chúng bay lên táo tác như loài chim bị tù túng giờ được phóng
sinh nhưng không biết có thoát khỏi bốn bức tường rào hay lại va vào rồi vỡ
vụn. Sáng ra chị quét lá rụng ngoài sân, tưởng như quét cả những mảnh vỡ loảng
xoảng dưới sân…
Từ
hồi xin xuất ngũ sớm rồi ra mở công ty riêng, anh ngày càng bận rộn hơn. Anh
mang công việc về nhà cõng vào cả giấc mơ. Thời buổi làm ăn càng ngày càng khó
khăn, công ty không ít lần điêu đứng. Chị không đi làm chỉ ở nhà chăm con nên
không thể xoay xở cho xong vài tờ giấy hóa đơn sinh hoạt phí mỏng manh mà đầy
dằn vặt để cuối cùng vẫn phải chìa trước mặt anh. Không chỉ đơn thuần là những
đồng tiền, nó còn là phận sự sẻ chia, đáng tiếc chị không san sẻ với anh được
dù là chút ít. Việc góp việc, lo toan dồn lo toan nên anh càng thêm mệt mỏi.
Nhưng hễ chị định xin việc làm là anh lại gạt đi với đủ thứ lý do. Nào là công
việc giáo viên của chị bon chen sao nổi lấy một chân ở đất này, nào thì lương
ba cọc ba đồng còn không đủ tiền thuê người giúp việc. Yêu thương cứ vụn vặt
dần từ những lo toan tủn mủn, mà nếu phác họa trong một bức tranh chắc chỉ nên
dùng một gam màu duy nhất cũng đủ rối rắm rồi. Và chị cứ dần mờ nhạt đi trong
cái nền bức tranh ấy như thể đã bốc hơi.
Giờ
khi ngủ anh không há miệng mà hay nói mớ. Toàn là những con số lộn xộn đua nhau
xếp hàng trong đêm, chị xót anh nhiều. Nên có lần chị hỏi anh xem có gì chị
giúp được không, anh bảo để anh được yên tĩnh chị thì biết gì mà giúp. Từ đấy
rồi thôi chị cứ định hỏi gì lại sợ phiền anh. Thấy anh ngồi trầm ngâm ở giữa
nhà chị cũng nhón gót đi né sát tường. Chị rửa bát cũng nhẹ tay để bát đũa đừng
va vào nhau lao xao nữa. Đến ngay cả đi vệ sinh tiếng bấm chạy nước ào ào chị cũng thấy mình trở vô ý tứ. Rồi nhiều
sáng trồ nhau ở cầu thang chị bỗng tự hỏi liệu hai người có đúng là vợ chồng
không? Sao khách sáo, dè chừng nhau hơn cả người xa lạ. Trời báo hôm nay có dông, chị cầm cái áo mưa trên tay đứng tần ngần ở cửa, vậy mà anh đi ra khỏi
ngõ rồi chị vẫn cứng họng không nói với anh được một câu, cũng chẳng nhấc nổi
chân để chạy theo dúi vào tay chồng chiếc áo mưa. Thôi chết. Hình như chị biến
thành ma-nơ-canh đứng trước shop quần áo hoặc con bù nhìn tả tơi giữa cánh
đồng…
Phố
dạo này đông hơn. Tại thấy lũ bạn ở quê vì lý do này kia xô đẩy mà đã lần lượt
xếp hàng làm công dân thành phố. Nhìn bạn trong cái hồ hởi của tuổi trẻ ảo vọng
về một chân trời đủ rộng để lập thân, chị không cả dám thở dài. Không dám cảnh
báo trước những căn bệnh truyền nhiễm mà bạn sẽ mắc phải khi sống ở đây. Cũng
có người vừa trải qua một cơn say xe nhồi nhét rồi lặn ngụp giữa dòng người Hà
Nội trong một buổi sáng thôi mà khi gặp chị ở quán vỉa hè đã thấy bạn như già
hơn, xác xơ hơn trong ánh nhìn mệt đuội. Cũng thương bạn mà không dám phác họa
gì thêm trên nền bức tranh lộn xộn này. Chỉ thỉnh thoảng hẹn hò nhau ở một quán
vắng nào đó. Lần hẹn sau bao giờ cũng trầm hơn lần trước. Cứ thế rồi đuội đi,
gặp nhau mà rỗng ngôn từ. Gặp nhau để thấy thành phố này không quá cô đơn. Có
đôi khi gặp nhau chỉ thấy hằn học độc một ý nghĩ “à, thành phố đã khiến chúng
mình nhàu nhĩ đến thế này đây”.
* * *
Thành
phố tưởng rộng lớn mà rất chật. Vẻn vẹn vài cái siêu thị lớn, một hai trung tâm
mua sắm, đôi ba địa chỉ dẫn nhau đi xem phim và một vài con phố chuyên để giải
quyết những vấn đề lớn nhỏ. Bởi vậy mà người dễ chạm mặt người. Hôm rồi nhỏ bạn
khóc tức tưởi qua điện thoại. Bạn bảo:
- Đi
với tớ.
- Đi
đâu?
- Đi
bỏ đứa bé ở trong bụng. Bố nó không cần nó, mình giữ làm gì.
Định
bảo bạn rằng nó là con bạn sao không giữ? Rằng bạn là mẹ nó sao không biết bảo
vệ con? Cái thai nhi bé nhỏ thân cô thế cô không có khả năng tự vệ kia tại sao
chính bạn lại tẩy trừ tước đi quyền được sống? Nhưng lời chìm trong môi, ý nghĩ
trôi vào miên man câm lặng. Vì biết bạn sẽ vẫn chọn cách ấy, như hàng trăm cô
gái lầm lỡ khác biện minh bằng sự xô đẩy và dối trá của cuộc đời. Có nói thêm
cũng chỉ thấy đặc quánh xót xa, những xót xa găm vào đời bạn. Chị đèo bạn đến
con phố giăng đầy biển quảng cáo như rực rỡ chào mời nạo hút thai. Xe vừa lao
đến bạn đã trở thành một con mồi cho những tay bảo vệ kiêm cò mồi nhảy ra hớn
hở chào mời như thể chèo kéo người vào uống bia, ăn thịt chó, xơi hải sản. Vài
cái bóng đàn bà đơn lẻ ngác ngơ rồi mất hút vào trong một cánh cửa nào đó. Bạn
kìm tiếng kêu than trong cổ họng, ngôn từ như gai nhọn miết vào thanh quản bật
ra thứ âm thanh nhọc nhằn kì cục. Tiếng dụng cụ y tế va vào nhau lách cách vừa
khô khốc đến tàn nhẫn vừa như khua khoắng chế nhạo sự câm lặng này. Một căn phòng
ọp ẹp, đồ đạc ngổn ngang, tất cả những thứ màu trắng ở đây đều đều ố màu nhàu
nhĩ. Chị lao ra ngoài, cảm tưởng như con phố này là một cái chợ phá thai, rất
nhiều lều quán nạo hút mọc lên, người ta kinh doanh những sinh linh bé nhỏ
chẳng khác nào giết người hàng loạt rồi phủi tay nhận về những đồng tiền. Chị
còn đang sa sẩm mặt mày vì mớ ý nghĩ ám ảnh ấy thì va phải phải một người phụ
nữ hớt hải chạy tới. Người này ngẩng lên hỏi chị:
- Có
nhìn thấy con tôi không?
Chị
lắc đầu. Người đàn bà cầm vội hai bàn tay chị lắc mạnh bảo:
- Cô
có nhìn thấy không? Con tôi nhỏ lắm. Nó bé bằng từng này, từng này này. Nó bị
người ta kẹp nát sọ, người ta lôi nó ra từ bụng tôi. Tôi nghe thấy con tôi
khóc. Rồi tôi không nhìn thấy con nữa, không tìm thấy nữa. Cô có thấy con tôi không?
Tay
chị ta ôm bụng, nấc khan từng cơn, ánh mắt biến đổi liên tục từ âu sầu đau đớn
bỗng hừng hực như căm phẫn rồi lại đuội đi với ánh nhìn tội nghiệp như trẻ nhỏ.
Lúc này tên cò mồi sau khi tranh trượt một đôi trai gái sẵn bực tức quay lại
vừa đánh đuổi người đàn bà ấy vừa quay ra nói với chị:
- Bà
ta bị điên. Đừng bận tâm.
Một
bà cụ đi chợ qua đứng lại nhìn theo người đàn bà đang bị xua đuổi kia rồi chẹp
miệng thở dài bảo:
- Khổ
thân. Nghe bảo ngày xưa bị gia đình thằng tình nhân chở đến đây ép phải bỏ cái
thai trong bụng nên giờ hóa điên hóa dại thế đấy. Thật chả hiểu nổi…
Bà
cụ nhìn chị từ đầu đến chân rồi lắc đầu, cúi mặt đi. Bạn chị bước ra nhìn chị cười. Cái cười như một sự gán nợ
thay ngôn từ. Chiếc xe đang lừ đừ trôi giữa chợ phá thai, chị giật mình nhìn
thấy cái dáng cao lều nghều quen quen vừa lách vào phố. Xe lao qua nhanh, lúc
chị ngoảnh lại chỉ kịp nhìn thấy biển số xe. Những con số mà sáng nào tựa cửa
nhìn theo chồng cũng găm vào mắt chị. Qua gương chiếu hậu chị thấy đằng sau xe
đó chở một cô gái, xe từ từ dừng lại trước một lều phá thai. Nếu không lầm thì
đúng lều chị vừa bước ra. Những cái lều chữ xanh đỏ mọc san sát nhau, trời bắt
đầu tối, biển hiệu nạo hút thai sáng rực trong ánh đèn nhấp nháy. Nhìn tưng
bừng rực rỡ đến nhức nhối tim gan.
Bạn
ngồi sau xe tựa đầu vào lưng chị bảo:
- Cung
lòng người mẹ có thể là thiên đường của những đứa trẻ nhưng cũng có thể là địa
ngục đúng không? Hôm nay cung lòng tớ giống như một pháp trường đang hành hình
đứa con vô tội.
Rồi
bạn cười khùng khục sau lưng giống như người ta nấc khan. Bánh xe đi như miết
trên mặt đường, cái nóng gần 400C thiêu đốt tan chảy đến từng ý
nghĩ. Chị muốn than một câu cho lòng nguội đi mà than không nổi. Dòng người
trôi lờ đờ trên phố, nhập nhằng lao vào nhau giữa ngã ba ngã bốn. Giống như
những dòng sông tù túng ứ đọng mải miết khơi dòng mà tìm mãi không thấy sông
thấy biển. Những cái miệng được bịt kín khẩu trang như là loài cá khiếp sợ dòng
sông ô nhiễm mà không dám thở. Chị ước gì có thể ngoi lên giữa phố há hốc mồm
mà thở giống con nhỏ bán chanh ớt ngoài chợ, giống chồng chị nhiều đêm và giống
như loài cá ngoi lên mặt nước đớp oxi.
Thành
phố vẫn rìn rịt chạy…
Vũ Thị Huyền Trang
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét