Nhà văn Trần Tâm
Sau hơn chục năm làm thơ, tôi đã có
ngót trăm bài. Săn đón cạy cục mãi, tập thơ đầu hoàn thành và được
in. Anh em, bạn bè hỉ hả lắm, khen rối lưỡi. Tôi cũng mừng. Mỗi khi
nhìn ngắm đứa con tinh thần của mình mà hãnh diện. Lòng lâng lâng,
dạt dào cảm xúc. Trên đời, có phải ai cũng làm được thơ, in ấn đàng
hoàng trước bàn dân thiên hạ như thế này đâu.
Tôi có một anh bạn vong niên cùng quê.
Anh là bộ đội hồi kháng chiến chống Pháp. Phục viên về với thẻ
thương binh loại 2. Cả vòm ngực hầu như bị xẹp. Ngày hè cởi trần,
mỗi khi thở, tảng ngực dập dềnh lên xuống trông rất hãi. Tôi làm thơ,
anh cũng biết và thường hay trao đổi với tôi mỗi khi rảnh việc. Anh
khe khắt, băm bổ nhận xét. Thơ chú còn non, chủ yếu là thơ ghép vần,
đọc cho vui, mất thời gian, mất công sức dông dài khoe mẽ, gặp đâu nói đấy. Nhiều khi anh bốp chát, thẳng thắn quá khiến
tôi phật lòng. Tận trong thâm tâm, tôi vẫn nghĩ anh nói đúng nhưng sao
nghe khó chịu hệt người đang ốm phải nhận những viên thuốc đắng
ngắt. Hình như có chùm gai trong mỗi lời nhận xét của anh. Mấy năm
trước, anh về quê sau ngày vết thương tái phát, không còn sức làm mỏ
nữa. Từ đó, tôi cũng chả gặp anh.
In xong tập thơ, nhận lời khen như mưa
táp, tôi khấp khởi mừng. Tuy không bán được tập nào nhưng mang cho
tặng khá nhiều. Ai cũng hồ hởi. Người khen bìa in đẹp. Kẻ mong được
đọc như cầu nắng sau những trận mưa dầm lê thê. Tôi mang hơn ba chục
tập về quê, phân phát cho bà con anh em xóm giềng. Ai cũng tôn trọng.
Họ nhao nhao hỏi xem tôi được những quyền lợi gì sau khi ra tập thơ.
Tôi thoải mái vẽ lên những chân trời mơ ước, những sắc cầu vồng rực
rỡ. Cho đến một hôm, tôi tìm tới nhà anh.
Anh đang cắm cúi cầm chép (một loại dụng cụ dùng xới
đất lật cỏ nhẹ nhàng ở quê tôi) bên những luống hoa. Thấy tôi sang,
anh dừng lại, hào hứng dẫn tôi vào nhà. Sau vài ba câu thăm hỏi tình
hình, tôi hãnh diện đưa tập thơ mới in của mình ra, viết viết ký ký
tặng anh. Anh cũng mừng, cầm cuốn thơ lên, xem xem, lật giở mấy trang
đầu.
- Em cố gắng mới ra được tập thơ này.
Cũng còn nhiều thiếu sót, em biết vậy. Tặng anh khi nào rỗi rãi đọc
và cho em biết ý kiến!
Anh với với tay, đặt tập sách của tôi
vừa tặng lên nóc chiếc tủ đứng:
- Tôi đọc rồi! Nói thật! Thơ của chú
còn kém nhiều mặt. Câu chữ lòng thòng, dôi lời.
- Anh đọc?
- Tôi vừa đọc xong! Cần gì phải đọc
hết. Qua lời giới thiệu của Lê Tử Dũng là đủ. Nhà thơ có danh này,
tôi biết. Ông ta vẫn bán tiết canh lòng lợn ở chợ Cẩm Trung chứ gì,
tin cậy được. Đọc những dẫn chứng của ông ta, tôi tin đó là những câu
hay nhất trong tập. Ngay những câu như thế, tôi đã nhận ra. Thơ chú còn
loãng nhạt. Thôi. Cố gắng làm lụng, dè xẻn tiết kiệm mà làm tập
thơ sau cho tốt hơn.
Tôi lặng lẽ về sau khi dằng dai một
vài câu cho đỡ nhái. Ý kiến của
một người dù có xác đáng, chân thực cũng bằng sao được số đông. Kệ người ta. Chỉ phán là giỏi. Có tài cứ làm ra thơ xem nào!
Năm sau, tôi ra tập thơ thứ hai dày
dặn. Bạn bè khen nức nở. Một tờ báo địa phương còn giới thiệu trang
trọng ở cuối trang 3 trong tờ báo khổ rộng 4 trang. Tôi khấp khởi
mừng, tìm mua hơn hai chục tờ để tặng cho những bạn bè ở xa. Vì
thế, tôi mang đến nhà anh trong một kỳ nghỉ phép.
Anh gạt tờ báo sang một bên. Lật
giở trang cuối tập sách rồi thủng thẳng:
- Một trăm bốn mươi bài. Năm nay chú
bốn tám. Tập đầu chín mươi sáu bài. Như thế, chú làm một năm còn
hơn bốn mươi bảy năm. Thơ thế thì hay thế nào được?
Tôi ngượng chín người. May chung
quanh không có ai. Tôi thẽ thọt:
- Vâng! Mong anh cứ xem cho em!
Tôi trở lại vùng than. Vẫn làm thơ
trong lúc công việc chuyên môn bề bộn. Chục năm sau, cuối cùng cũng có
tập thơ thứ ba. Dày cộp, bìa cứng, in trên giấy hoa tiên bóng đẹp.
Lần này, báo chí tiếp tục ngợi ca.
Tờ báo địa phương, tờ báo ngành trong bài nhận xét lại có in giới
thiệu cả bìa sách. Nhân một cuộc thi thơ ở huyện, tôi tham gia luôn.
Nghe đâu ban giám khảo được chọn từ đâu về, có vẻ thích định trao cho
giải khuyến khích. Tôi khoái lắm, tặng bạn bè, không nói gì về chất
lượng. Ba tập thơ. Cả một núi công sức chứ có xoàng đâu?
Rồi lại phải gặp anh. Trông anh đã
khắc khổ, già nua hơn những lần gặp trước.
Anh đỡ tập sách, nâng nâng hạ hạ
như người đang ước lượng cân cá, cân thịt ngoài chợ:
- Chà chà! Nặng! Dễ đến hơn cân ấy nhỉ?
- Dạ! Cân hai đấy ạ!
- Ờ! Thế chú hết bao nhiêu?
- Cả chi phí đi lại, em mất đúng hai mươi triệu?
- Nếu mang bán cho bà gói xôi chắc cũng được
hai trăm ngàn?
- Sao…?
- Tập thơ này có tám mươi bài.
Trung bình sơ sơ mỗi bài mười lăm gam. Chú in xong lại mang cho từng
người chứ có bán được đồng nào đâu? Cả một bọn lau chau xúm lại
khen nhau chứ biết thế nào là thơ. Làm như thế chỉ có kéo tụt thơ
xuống thì có chứ vinh danh vinh dự gì? Tốt nhất bán cho người gói
xôi, cho đồng nát. Vừa đỡ mất công, may ra cũng gỡ gạc được tý vốn.
Thôi! Chú cứ về đọc đi đọc lại, cân nhắc kỹ chọn mười, hai mươi lấy
một rồi hãy in. Tôi sợ rằng sau này, con cháu đọc, nó không hiểu tại
sao cha ông nó dở hơi, viết những bài thơ chẳng ra thơ, vè chẳng ra
vè. Cứ lủng cà lủng củng thế này.
Chả biết tránh mặt vào đâu, tôi ậm
ừ cho qua chuyện rồi tìm cách lảng. Anh bảo:
-
Dạo này anh cũng yếu, chả biết trời cho bao nhiêu nữa. Tối nay
nếu rỗi, chú sang ngủ với anh một đêm. Bận thì thôi, dịp khác.
-
Có việc gì không anh?
- Ta tâm tình với nhau tí chút. Lâu
nay anh không biết tình hình tầng mỏ thế nào? Bạn bầu anh em ra sao?
Đêm ấy, tôi ngủ lại nhà anh. Hai
người chuyện trò đến thật khuya. Tôi tế nhị, không nhắc gì đến thơ
thẩn nữa. Chính anh lại là người chủ động bàn bạc. Làm thơ là xông vào cuộc sống thu
thập chọn lọc, chưng cất lên để thành hương chứ thơ trong vòng khói
thuốc bọt bia tưởng sóng gió bão táp, hai ba đêm quá giấc ngỡ cuộc
đời tràn ngập mất mát lớn lao, nghe phải mấy câu trái tai đã xửng cồ
căm giận nghĩ trước mặt mình là giặc thì hỏng. Không đổ mồ hôi,
không sôi nước mắt mà đòi có lâu đài nghệ thuật là điều nằm mơ,
loạn thần kinh. Thơ phải đọc kỹ, sửa chữa những chỗ vụng về,
cắt bỏ những đoạn mình cho là dở mà còn tiếc rẻ. Xén như cầm dao
cứa vào thân thể mình cơ. Thơ sâu như mạch ngầm, rộng như đại ngàn,
bí mật như lòng biển càng khai thác càng thấy chưa với tới thì mới
là thơ.
Nhiều lúc cao trào, giọng anh vang
vang. Bà vợ nằm gian bên trở dậy, nhắc mấy lần. Anh đừng nói chuyện
khuya. Ốm đau thế, thức khuya ảnh hưởng đến sức khỏe. Như được trang bị
kiến thức từ những dẫn chứng trong từng bài viết, tôi thấy mình lớn
lên sau lời dạy bảo của anh. Thơ là sự lao động nhọc nhằn mà người
đọc không thấy sự nhọc nhằn ấy mới thú.
Năm năm sau, tôi về quê. Làng xóm đã
thay đổi. Phố lấn làng, làng chen phố. Cửa nhà mọc lên không rõ dấu
tích mồ mả cha ông nơi nào. Hàng hóa nhiều, ê hề suốt những ngõ
hẹp. Người quen cũng giả bộ chẳng nhận ra nhau. Tôi mang theo tập bản
thảo mà mình đã chắt lọc từ ba tập thơ trước. Rút gọn, cắt tỉa,
chặt chém từng đoạn dài. Tập thơ chỉ còn vẻn vẹn ba mươi bảy bài.
Ghé vào thăm anh. Anh đã mất sắp qua
49 ngày. Trên ban thờ khói hương nghi ngút. Tôi thắp hương khấn anh:
- Anh ơi! Em về không kịp nữa rồi.
Biết thế này, em đến sớm hơn thì anh em ta thêm một đêm đàm đạo với
nhau.
Chị vợ anh chờ tôi khấn khứa xong,
mời ra bàn uống nước. Chị bảo:
- Trước mấy hôm anh mất, vẫn nhắc
tới chú. Anh dặn phải trao tận tay chú mấy cuốn sách này!
Tôi nâng gói giấy, lật ra. Mặc dù
nhàu nát vẫn nhận ra đó là mấy tập thơ của mình. Lật vài trang, tôi
thật sự kinh hoàng khi thấy dấu vết bàn tay anh gạch xóa, chữa bỏ
hàng loạt trên tập thơ ấy. Điều lạ lùng là những chỗ anh chữa sửa,
cắt bỏ hầu như trùng với những gì tôi đã chép trên tập bản thảo
mới.
Lặng lẽ giở từng trang từ đầu đến
cuối. Mắt tôi nhòe nhoẹt nước. Tôi lại đến bàn thờ anh. Rút ba cây
hương, tôi run run đốt rồi quỳ xuống:
- Thày ơi!
Cẩm Phả - Tháng 09. 2014
T.T (Quảng Ninh)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét