Nhà văn Phan Trang Hy
Người,
cũng là muôn loài trong cái thế giới ta bà, vẫn mang tứ khổ của cuộc đời, vẫn
phải chịu bao cảnh trầm luân, vẫn phải nỗ lực tu tập để thoát khỏi luân hồi.
Tôi cũng thế. Có lúc tôi chịu đớn đau, chịu bao phiền não. Tôi nào thoát được
chốn trần gian đầy khổ ải.
Đôi
khi, vì cớ này cớ nọ, tôi tìm đọc những vần thơ Thiền. Và tôi bắt gặp bài kệ Cáo tật thị chúng (Có bệnh bảo mọi
người) của Thiền Sư Mãn Giác (1052 – 1096):
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tòng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc
tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi
mai.
Xuân ruỗi, trăm hoa rụng,
Xuân tới, trăm hoa cười.
Trước mắt, việc đi mãi,
Trên đầu, già đến rồi.
Đừng tưởng xuân tàn hoa
rụng hết,
Đêm qua, sân trước, một
cành mai.
(Ngô Tất Tố dịch)
Thơ Văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội – 1977
Thiền
sư nhìn sự vật trôi, với tâm định, định đến vô cùng, hòa nhập với chân như, nên
tâm Ông rung lên tiếng thơ lòng thiền. Trước tự nhiên, tâm tự nhiên theo. Ông
an nhiên theo vòng sinh hóa vũ trụ:
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Tự
nhiên là vậy. Xuân khứ rồi xuân đáo, hoa lạc rồi hoa khai. Có
phải đó là quy luật sinh hóa? Có phải đó là quy luật thời gian?
Nói
về mùa xuân là để nói đến tứ mùa. Thời gian cứ trôi, kiếp làm người cũng như
muôn loài phải mang chuyện sinh tử, phải chứng kiến những sự đời trôi qua trước
mắt: Sự trục nhãn tiền quá. Sự đời
trôi theo thời gian, mà thời gian lại trôi theo tâm, bởi tâm là con mắt huệ - mắt
thiền. Đời trôi mà tâm định là cớ làm sao?
Nhưng,
làm người cũng có thể tâm định kia mà!
Tâm
định, nhưng thời gian vẫn cứ trôi. Và thế là cái lão vẫn cứ đến với con người.
Đó
là sự nghiệt ngã của tự nhiên dành cho con người. Cái già từ từ đến trên đầu: Lão tòng đầu thượng lai. Đọc câu thơ,
tôi bỗng nhận ra một điều: trên đầu tôi tóc đã hóa trắng. Tôi đang đến già. Già
vì biết, vì khổ não, phiền trược. Tôi già theo thời gian...
Thời
gian của vũ trụ, của ánh sáng thì vô cùng. Thời gian của đời người thì có hạn. Tôi
nghe có ai đó nói bên tai tôi là, chỉ có vượt cái có hạn đế đến cái vô cùng mới
có thể vượt qua vòng luân hồi của tử sinh - sinh tử.
Và
trong tôi như thấy giờ phút sắp viên tịch, chất thiền của Mãn Giác Thiền sư tỏa
sáng bên các đệ tử:
Mạc vị xuân tàn hoa lạc
tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi
mai.
Dẫu
hoa tàn khi xuân hết, nhưng sức sống của thiên nhiên vẫn mãnh liệt. Trong cái
tàn của hoa xuân lại ẩn hiện mầm sống của đất trời qua hình ảnh nhất chi mai. Thiền sư không nói hoa nở
trước sân, nhưng tâm cảm một cành mai đang hấp thụ, chắt lọc tinh túy của đất
trời để tồn tại trên cõi đời này. Cùng sự đồng cảm với Mãn Giác, Thiền sư Chân
Không (1046 – 1100) nói về Diệu Đạo: Xuân
lai xuân khứ nghi xuân tận. Hoa lạc hoa khai chỉ thị xuân (Tạm dịch: Xuân
đến xuân đi tưởng xuân hết. Hoa tàn hoa nở vẫn hoàn xuân).
Tất
cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã. Cảm nhận sự
tuần hoàn ấy, hồn thơ của Mãn Giác đã định trước đổi thay, trước luân hồi của
vạn vật. Không còn tứ khổ khi Nhà thơ Thiền mang bệnh lại nói nhất chi mai. Bởi vì Thiền sư đã an
nhiên cái lẽ thường tình sinh tử: Sinh
lão bệnh tử- Tự cổ thường nhiên (Diệu Nhân, 1041 – 1113).
Cả
bài kệ đầy chất thơ, từng câu từ đầu đến cuối đều có ý niệm thời gian. Tác giả
dùng thời gian như là qui luật mà con người phải nhận lấy để làm Người, để
khẳng định sự tồn tại của chất Người -
nhất chi mai. Quả thật, ở Thiền sư, thời gian tịnh đến độ như không có gì
để nói, như bản ngã người hòa với Đại Ngã Tự nhiên, như chân như của người, của
Phật.
Đọc
Cáo tật thị chúng của Mãn Giác Thiền
sư trong thời buổi này, tôi vẫn thấy nhất
chi mai theo thời gian hấp thụ tinh khí thần của Nhật - Nguyệt - Tinh Đại
Ngã để thành Người.
P.T.H (Đà Nẵng)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét