Những
ngày đầu xuân mới, còn gì thú hơn là chuyện phiếm về năm mới sang.
Hương đất trời dậy nồng nàn trong chén rượu ngày xuân. Vũ trụ vần
xoay, khó ai ngăn được: Ngọ đi - Mùi đến... Năm Mùi - năm Dê, tuổi Dê,
nghe chẳng chút thanh tao... Nhưng Xuân năm Mùi nay cũng có nhiều vần thơ
xuân, chuyện tình thi vị.
Trong 12 con giáp, Dê - Mùi ở vị trí
thứ 8, năm biểu tượng sức sưng mãn của Đời - Người ấm no, hạnh phúc.
Năm Ngọ, mã đáo thành công
Năm Mùi, dê béo, rượu nồng phủ phê
(Thơ ca dân gian)
Sự sung mãn được khắc nét ở bộ sừng, bộ râu mà dê đực dê cái đều có:
Tuổi Mùi là con dê chà
Có sừng, có gạc, râu ra um sùm (Vè 12
con giáp)
Ấn tượng "râu um sùm' dễ gợi liên tưởng đến thói bờm xơm, tính dê xồm đùa cợt,
ghẹo tình của hạng người xấu tính đối với phái nữ khiến người có
năm sinh Mùi được cho là ít nhiều ẩn chứa máu cụ Dê mặc dù cho đến
nay chưa bằng chứng khoa học nào liên quan! Thực ra dê là loài có ích
cho con người bản chất hiền lành, cho thịt ngon, sữa ngọt. Đặc biệt nó tràn
trề sinh lực dục tình (một dê đực đáp ứng cho hàng chục dê cái) nên
người đời lên án, phê phán những kẻ có thói dê - Bùi Kiệm:
Còn người Bùi Kiệm máu dê
Ngồi chai bộ mặt như giề thịt trâu
(Lục
Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu)
Đậm đặc là trong thơ ca dân gian: Dê xồm ăn lá khổ qua/ Ăn nhiều sâu
rọm, chết cha dê xồm; Phụng hoàng đậu nhánh sa kê/ Ông thần không vật mấy thằng
dê cho rồi vv...vv.
Nhưng cũng trong dòng thơ dân gian từ dê biến âm thành de, ve (tán tỉnh, ve vãn) đậm
tình, quyến rũ:
- Cam sành lột vỏ còn the
Thấy em còn nhỏ anh de để dành
- Thằn
lằn tắc lưỡi mái rui
Mạ ơi anh
nớ ve tui mạ nì (Ca dao)
"anh de để dành", "anh nớ
ve tui" - những
lời ăn tiếng nói tượng hình tạo
niềm khoái cảm thẩm mỹ không chê vào đâu được như Bà chúa thơ Nôm Hồ
Xuân Hương từng được người đời nhắc đến hai câu thơ tả chú dê con tung
tẩy hồn nhiên:
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê con buồn sừng húc giậu thưa.
Dê sung tình và cũng rất phàm ăn. Ngay
cả thói háu ăn đó của chàng dê cũng thành cầu nối loan tình cho bậc
Quân Vương với cung tần, mỹ nữ. Phải duyên hương lửa cùng nhau/ Xe dê
lọ rắc lá dâu mới vào... (Nguyễn Gia Thiều) từ điển tích của Tấn Võ đế (Trung
Quốc) mỗi đêm ngồi xe dê dạo hậu cung, xe dừng lại cửa phòng nào (ăn
lá dâu non trước cửa) thì vua sẽ
ban ân sủng với cung phi đó. Thật không khác nào trò chơi
"xổ số tình"! Do vậy, không được thỏa khát vọng "tựa mạn thuyền
rồng" dù chỉ một đêm người cung nữ tràn sầu thảm:
Thâm khuê vắng ngắt như tờ
Cửa châu gió lọt rèm ngà sương gieo.
Ngấn phượng liễn chòm rêu lỗ chỗ
Dấu dương xa (xe dê) đám cỏ quanh co.
( Nguyễn Gia Thiều)
Nỗi thảm tình ai oán về
thân phận người phụ nữ chôn vùi tuổi xuân nơi cung cấm - tư tưởng cốt
lõi làm nên giá trị nhân văn khúc ngâm (Cung
oán ngâm khúc) vượt thời gian.
Khúc hát "Bách
Lý Hề năm bộ da dê" lại mang chứa một cuộc đoàn viên cảm động. Trên
bước đường lập chí gian nan, Bách
Lý Hề ( được chuộc về từ nước Sở bằng năm bộ da dê) - thời Xuân Thu trở
thành Tướng quốc giúp Tần Mục Công dựng nghiệp lớn lúc đã hơn 70
tuổi, say mê công danh quên mất người vợ thuở hàn vi. Chỉ khi nghe điệu
sầu thương cất lên của người vợ năm xưa - Đỗ thị:
"...Bách Lý Hề,
năm bộ da dê! Nhớ ngày nào cùng nhau ly biệt/ Mổ con gà mái ấp, thổi nồi cơm
gạo vàng... Ngày nay giàu sang, quên ta hay sao? Bách
Lý Hề, năm bộ da dê! Nhớ ngày xưa tiễn chàng ra đi, thiếp tôi nưóc mắt chứa
chan! Tới bây chừ, thấy chàng ngồi đó, thiếp tới ruột đứt đòi cơn! Chừ thương
thì thương... Ngày nay giàu sang, quên ta hay
sao?", Ngũ Cổ đại phu - Bách Lý Hề (Ngũ Cổ/ năm bộ da dê) mới trùng
phùng trong nước mắt với vợ con.
Còn ở nước ta, Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491
- 1585), đỗ Trạng
Nguyên năm Ất Mùi (1535) dân gian quen gọi là Trạng
Trình, là nhà văn hóa lỗi lạc của Việt Nam trong thế kỷ 16. Phẩm
hạnh trung trinh, có tài thơ văn và ông còn được lịch sử ghi nhận về
tài tiên tri không ai sánh kịp. Ở góc độ đời riêng, người đời còn
truyền mãi giai thoại tình với người vợ thứ ba của quan Trạng Ất Mùi
này. Một lần cùng bạn hữu lên núi Đồ Sơn ngắm cảnh vịnh thơ, sau khi
xuất khẩu bài thơ "Hải uy" (Biển mạnh), Nguyễn Bỉnh Khiêm
còn cao hứng ra vế đối: Trai Đồ Sơn đứng núi Đồ Sơn, Sơn sơn xuất anh hùng hào kiệt. Trong
khi các đang bạn lúng túng tìm ý, từ thì ở rặng cây gần đó một
hầu gái bước ra đưa cho ông một tờ giấy nhỏ ghi câu đối: Gái Minh Nguyệt ngồi trong cung nguyệt, Nguyệt nguyệt bằng quân
tử trượng phu. Đọc xong, quan Trạng Nguyễn
vô cùng kinh ngạc vì đối quá chuẩn! Cảm sắc, mến tài chủ nhân của
câu đáp đối, Nguyễn Bỉnh Khiêm dò tìm và đưa Minh Nguyệt về làm
thiếp. Bất chợt mà lại nên duyên chồng vợ, chuyện tình tri kỉ thi ca thơ mộng không
kém mối tình "Nguyễn Trãi - Thị Lộ"! Đáng tiếc là duyên
tình Nguyễn Bỉnh Khiêm và người bạn đời Minh Nguyệt đằm thắm mặn
nồng chẳng được lâu. Về sau ông chiều ý cho dựng ngôi chùa cách không
xa nơi ông dạy học, ẩn cư - am Bạch Vân để bà hướng Phật, tu tại gia.
Trong chùa có trồng hai gốc mai, nên được gọi là chùa Song Mai
(1). Khói sương tình mộng giữa hai người vẫn lãng đãng. Hôm Nguyễn
Bỉnh Khiêm đến dự buổi khánh thành chùa, bà Minh Nguyệt mắt hoài vọng phía biển quê nhà ra vế đối
ẩn nỗi trách thầm Hải bất ba đào, khan hải tĩnh (Biển
không có sóng, biển thành biển tĩnh).
Nghe xong mà lòng xôn xao, quan Trạng Nguyễn liền tỏ bày niềm riêng bằng cách chỉ tay
xuống hồ nước trước chùa đáp lại: “Hồ
vô minh nguyệt, hồ bán mê” (Hồ không có ánh trăng, hồ thành mờ ảo). Quả là "Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở" (Ngập ngừng -
Hồ Dzếnh), thiên tình sử của quan Trạng Ất Mùi vẫn ánh lánh trên
lớp bụi thời gian dẫu đã trôi qua gần 500 năm!
Xuân và Tình hai mặt
không thể tách rời - nguyên lý căn cơ làm nên cõi nhân gian nổi chìm dâu bể/ hồng
ngọc, lụa là. Năm mới - năm Mùi đến, hẳn ai trong chúng ta đều chung
khát vọng "nhật nhật tân, hựu nhật tân", xuân mới, ngày ngày
lại mới, mới hơn. Tình yêu Xuân, yêu Người, yêu Đời càng dạt dào tình
long lanh xuân trong Thơ. Những vần thơ của nhà thơ Huy Cận (1919 - 2005),
một trong những đại thụ của nền thơ hiện đại nước nhà và cả Phong
trào Thơ Mới (1932 -1945) ở chủ đề Xuân sáng
trong, phơi phới xuân qua các bài thơ Áo Xuân, Xuân, Trăng Xuân, Xuân
Ý...
Cây
xanh cành đẹp xui tay với;
Sông mát tràn
xuân nước đậm bờ (Xuân)
Xuân rạng lối, tràn bờ, chúng ta hãy "vận
tấm áo xuân" mà 7 thập niên trước
người thơ sinh năm Kỷ Mùi (1919) của
Lửa thiêng, Vũ trụ ca, Kinh cầu tự
(1940 - 1942) thong dong dạo đất
trời nguyên đán cất điệu "tâm tư ngào ngạt" chào
xuân mới đắm mê:
Ta vận tấm xuân đi hớn hở
Tâm tư ngào
ngạt hiến dâng đời
Thân cũng hát
lừng cao nhịp lửa
Hoa thiên thu
hẹn nở cùng môi. (Áo Xuân)
(1) Hiện nay chùa
là một trong chín điểm thuộc Khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm được xây dựng tại làng Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo,
thành phố Hải Phòng.
(2) Các bài
tham khảo:
- "Con dê trong thơ ca" - Việt
Chung
- Bách
Lý Hề - Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
- "Những mối tình tuyệt đẹp của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm" - báo TTVN
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét