Có vẻ như trái khoáy, song nếu không trải qua chiến tranh, không từng cầm súng,
tôi sẽ không nghĩ tới chuyện một ngày nào đấy cầm bút viết văn. Nhưng chắc
chẳng riêng tôi, tôi nghĩ nhiều nhà văn nhà thơ cùng lứa với tôi và cùng từng
là bộ đội như Hoàng Nhuận Cầm, Trần Anh Thái, Nguyễn Việt Chiến, Phạm Ngọc
Tiến... cũng vậy, là nhà văn bởi đã trải qua chiến tranh.
Chiến tranh không chỉ theo nghĩa là đời lính và trận mạc mà là thời đại chiến
tranh, mấy chục năm trời cảnh ngộ chung của cả nước, số phận của muôn người.
Bởi vì đất nước lâm cảnh chiến tranh nên đám trẻ thị thành như tôi mới đi sơ
tán về làng quê. Không biết nông thôn chẳng thể thành nhà văn, đến nay tôi vẫn
tin như vậy. Và vì thế tôi ngạc nhiên khi thấy có những nhà văn nhà thơ cả đời
chỉ quẩn quanh đời sống phố phường mà vẫn có thể viết được, thậm chí viết hay.
Bản thân tôi thì thực sự là nhờ một thời chạy giặc sơ tán về nông thôn và sau
đó là nhờ đời bộ đội mà cụ thể là nhờ Mặt trận Tây Nguyên, nhờ Sư đoàn 10, nhờ
trung đoàn, tiểu đoàn, nhờ đại đội của mình, mà viết được truyện, mà thành nhà
văn.
Cuộc chiến trường thiên ba chục năm, 1945 - 1975, là cuộc chiến toàn dân toàn
diện và toàn bộ đời người, nên hồi đó là anh lính đối trận hay là ông thầy giáo
dạy học ở hậu phương, ngay cả là anh sinh viên du học ở Đông Âu thì cũng đều có
thể coi là đã tham chiến, và đều có thể viết về thời đại chiến tranh với góc
nhìn cách nghĩ của riêng mình. Bởi vậy, các nhà văn Việt Nam sinh ra lớn lên
trong nửa sau thế kỉ XX, tùy vào kinh nghiệm, sự hiểu biết, sự thấu cảm có được
do hoàn cảnh và số phận của bản thân mình trong thời kì chiến tranh, đã tạo
dựng nên mảng đề tài chiến tranh với vô vàn tác phẩm, phong phú, đa dạng đa
chiều và cố nhiên là riêng biệt, mỗi nhà văn mỗi khác. Ngay cả nếu như vốn cùng
là lính, có thể là cả cùng đơn vị, thì mỗi nhà văn cũng vẫn có suy nghĩ riêng,
tâm trạng riêng, cách nhìn riêng về chiến tranh và rồi sẽ viết về chiến tranh
không giống nhau, thậm chí trái ngược nhau. Bởi vì, thế mới là văn chương. Mới
là nhà văn. Mới là con người.
Trong chiến tranh, trừ phi là nhà văn nhà báo được cử vào chiến trường để viết
văn viết báo, còn lính thường bộ đội chiến đấu chẳng ai nghĩ tới, có nghĩ tới
cũng khó lòng mà viết lách văn chương chữ nghĩa gì nổi. Chiến tranh chẳng
phải trò đùa, chẳng phải ngày hội, thật sự là vậy.
Song, sau chiến tranh, còn sống, mà không hề nghĩ tới cái sự rằng rồi đây mình
sẽ viết một cái gì đó về đồng đội, về trận mạc, về những thử thách đã qua thì
lại là sự lạ.
Tại một trại viết văn do Quân đội mở hồi năm 1990, tướng quân Đặng Vũ Hiệp,
nguyên Chính ủy Mặt trận Tây Nguyên nói thế này, tôi nhớ đại ý: Ai đã từng là
bộ đội trong chiến tranh thì đều có sẵn sàng ở trong con người mình một nhà
văn, chỉ có điều, do những hoàn cảnh khác nhau của đời sống mỗi người trong
thời bình, nên rốt cuộc người thì đã viết người thì không viết, hoặc chưa viết.
Tôi cùng đồng đội hành quân dọc Trường Sơn vào đến Mặt trận B3 đầu mùa mưa năm
1970. Đấy là thời kì “sau Mậu Thân”, những năm thoái trào nghiêm trọng của Quân
Giải phóng. Chí ít là tại địa bàn Tây Nguyên. Hi sinh tổn thất khôn xiết kể và
những người sống sót thì phải chịu đựng gian khổ đến cùng cực. Nhưng cũng chính
do trải qua những năm nguy kịch đó mà tôi thấm thía hiểu được cái điều “không
thể nào hiểu nổi” về sức mạnh tinh thần của bộ đội ta. Từ đáy cùng, tưởng chẳng
còn nổi chút hơi tàn mà thở chứ đừng nói gượng lên chiến đấu, bộ đội Tây Nguyên
đã dốc toàn lực bình sinh rũ bùn đen trỗi dậy làm nên Tổng công kích 1972, rồi
Mùa xuân 1975, giáng đòn Buôn Ma Thuột, hành tiến đuổi địch dọc miền Trung, và
làm mũi chủ công tốc chiến giải phóng Sài Gòn.
Sau ngày hòa bình, tôi rời Sài Gòn về lại Tây Nguyên, gần một năm làm công tác
quy tập hài cốt anh em đồng đội. Chín tháng trời thực hiện cái nhiệm vụ bi
thương ấy, tuy mới góp phần tìm kiếm và quy tập được một phần chưa đáng kể phần
mộ của nhiều thế hệ bộ đội đã ngã xuống trên các ngả đường chiến tranh, vẫn đã
khiến tôi trước ngày giải ngũ có “cơ hội hơn người” được nhìn vào tận lòng sâu
đất thẳm của cuộc chiến, khơi lại và thấy lại một lần nữa hình hài và hình bóng
của lớp lớp đồng đội đồng chí đã bỏ mình từ tận những ngày xa xưa đầu kháng
chiến 1945 đến những giờ phút cuối cùng ngày 30 tháng Tư. Và không chỉ đồng
đội, mà cả quân lính đối phương, không chỉ binh sĩ mà cả dân thường, cả phụ nữ,
cả trẻ em, chúng tôi đã nhìn thấy họ nằm đó, hồn ẩn trong đất đá, trong lá cây,
trong rừng, trong núi, bên bờ sông bờ suối, ven những lối mòn dọc ngang khắp
thời loạn lạc.
Sáu năm quân ngũ không là mấy đối với tuổi tôi bây giờ 64, nhưng tôi viết văn
chỉ bởi vì và chỉ bằng vào quãng đời sáu năm ấy.
Mặc dù không phải là một kẻ sống lạc thời trong cuộc sống thời bình bốn chục
năm qua, cũng am tường thực trạng sự đời có lẽ chẳng kém ai, vậy nhưng ngoại
trừ dăm ba bài báo, tôi chưa từng viết nổi một cái gì có tính văn chương mà lại
chỉ thuần “cập nhật” sự đời hôm nay.
Tuy nhiên, mặc dù thường hay nói một cách thuận miệng là mình chỉ viết về “đề
tài chiến tranh”, tôi thực sự quan niệm rằng chẳng có nhà văn nào đích thực là
nhà văn lại “viết về chiến tranh”.
Hòa bình hay chiến tranh, đấy là thời gian và không gian sống rồi chết của
những đời người. Nhà văn viết, suy ngẫm về đời người, số phận con người, mà
chiến tranh hay hòa bình chỉ là ngoại cảnh. Ngay như tiểu thuyết Chiến
tranh và hòa bình mặc dù tên như thế và mặc dù dày đặc những
trang triết luận rất siêu hình về lịch sử, về chiến tranh, về hòa bình, nhưng
về cơ bản và rốt cuộc thì đời người, số phận con người muôn vẻ mới là xác thịt
và linh hồn của tác phẩm vĩ đại ấy.
Theo tôi, những tác phẩm đúng nghĩa là tiểu thuyết chỉ có duy nhất một đề tài,
ấy là “số phận con người”, và bất kể cách viết như thế nào, câu chuyện và nội
dung của những tiểu thuyết ấy cũng chỉ là để thể hiện nội tâm và nỗi lòng của
con người.
Song le, ngày nay, khi viết những tác phẩm mà trong đó có sự tái hiện khung
cảnh chiến tranh, nhân vật bị đẩy lại vào không gian chiến hào, thì ngoài vấn
đề viết như thế nào, nhà văn luôn phải tự đối diện với câu hỏi: Viết để làm
gì? Tại sao? Viết, kể, khơi lại, dựng dậy những câu chuyện vừa cũ xưa lại
vừa bi thảm như thế, để làm gì?
Khi còn đang học trường Viết văn Nguyễn Du, một lần trò chuyện với nhà văn Kim
Lân, tôi được ông khuyên thế này, còn nhớ mãi: Anh là cựu chiến binh từng trực
tiếp đánh trận vậy hãy dồn tâm sức viết về quãng đời đó, nhưng phải viết sao
cho hay, và cần phải nhớ, viết về chiến tranh tức là viết về hòa bình, về tình
yêu thương, lòng nhân ái, đức khoan dung...
Hòa bình, tình yêu, lòng nhân ái, sự khoan dung... Đấy là những phẩm chất có
tính biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam, và được thể hiện rõ nhất trong những
năm chiến tranh gian khổ.
Có một cuộc tranh luận văn học cuối những năm 30 thế kỉ trước khiến tôi vẫn
thường nghĩ tới, mặc dù thật ra cũng không hiểu được kĩ lưỡng ngọn ngành. Đấy
là cuộc bút chiến giữa Hoài Thanh - Hải Triều, giữa “nghệ thuật vị
nghệ thuật” với “nghệ thuật vị nhân sinh”.
Tất nhiên cũng hiểu rằng nổ ra cuộc bút chiến ấy trước nhất là do những xung
đối chính trị của thời kì đó, song tôi vẫn cứ ngạc nhiên, bởi về mặt văn chương
thì tôi thấy tranh luận vậy có vẻ quá khiên cưỡng. Hơn thế, sự khiên cưỡng ấy
tôi cho là còn tiếp tục đến tận ngày hôm nay trong suy nghĩ của không ít nhà
văn và độc giả.
Một tác phẩm văn học không thể nào vị nghệ thuật nếu không vị nhân sinh, và
ngược lại. Quan niệm đó của tôi, đến với tôi từ một lần kinh nghiệm trong quân
ngũ.
Kể từ cuối năm 1973, khi tuyến vận tải Trường Sơn trở nên thông thoáng dễ dàng
hơn thì ngoài đạn gạo dồi dào, bộ đội B3 còn được tiếp tế sách, cả sách văn
học. Khi đó tôi được chính trị viên giao nhiệm vụ làm “thủ thư đại đội”, nghĩa
là ngoài ba lô và khẩu súng tôi còn phải nhận thêm một ba lô sách. Rất khổ, vì
nặng không thua gì cái bàn đế súng cối. Mà lẽ ra thì không nặng thế, vì lẽ ra
là anh em trong đơn vị sẽ mượn đọc và sẽ làm vơi đi cái tủ sách di động trên
lưng tôi. Nhưng chỉ mấy tờ tạp chí Văn nghệ Quân đội là lính tráng chịu đọc,
còn hơn chục cuốn tiểu thuyết dày ự nặng trịch thì vẫn nguyên đấy chẳng ai
đụng. Bấy giờ đang trú quân ở hậu cứ nên không phải là không có thì giờ đọc, và
hầu hết anh em trong đơn vị trình độ văn hóa cấp ba, thậm chí có cả sinh viên,
lại cả sinh viên văn khoa nữa. Mà các tiểu thuyết ấy thì đều có nội dung tuyên
truyền cổ vũ tinh thần chiến đấu của chính chúng tôi, anh bộ đội. Vậy nhưng anh
bộ đội chẳng ngó ngàng. Được xem là thức ăn tinh thần của chiến sĩ, song chiến
sĩ không ai đọc, thì thức ăn nỗi gì. Tôi nghĩ vậy.
Tuy nhiên, tôi nhớ, đầu năm 1975, trước chiến dịch Buôn Ma Thuột, chúng tôi
nhận được loạt sách của Nhà xuất bản Văn học gửi tặng, trong đó có cuốn Bút kí
người đi săn của Turgenev. Văn học nước ngoài, thế kỉ XIX, chẳng liên quan gì
tới trận mạc đánh đấm, có thể nói là rất xa lạ với thực cảnh đời lính, ấy vậy
mà lạ thay lính tráng đại đội tôi chuyền tay nhau đọc. Thật ra, chẳng có gì là
lạ. Sách phải hay thì mới có độc giả, dù là độc giả giáo sư hay độc giả binh
nhì.
Cái cách chọn sách để đọc của độc giả bộ đội ở đơn vị tôi đã tạo nên trong tôi
ngay từ hồi ấy đến tận bây giờ một quan niệm rất đơn giản rằng, đã là tác phẩm
văn học thì phải hay, bởi nếu không thế thì cái sự viết lách của nhà văn sẽ vừa
vô nghĩa và vô ích vừa rất nực cười.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét