Phạm Hữu Hoàng
1
Ông
Sầm xuống sân bay vào lúc 4 giờ chiều. Ra khỏi nhà ga,
ông gọi một chiếc taxi. Anh tài xế nhanh nhảu xách cái
va li bỏ vào cốp sau rồi mở cửa xe nhã nhặn: “Mời
bác lên xe”. Ông khoan khoái ngồi vào chiếc ghế nệm,
tựa người vào thành ghế. “Bác về đâu?”, anh lái xe
hỏi. Ông nói địa chỉ. Anh ta gật đầu, cho xe chạy.
Qua ô kính, cảnh vật loang loáng lướt nhanh, ông ngắm
say sưa đồng ruộng, con mương, những mái nhà ẩn hiện
dưới bóng tre xanh ngắt... “Ba mươi năm rồi còn gì!”,
ông nói thầm. Ngày ấy, không chịu nổi cuộc sống nghèo
túng, tủi nhục, ông dứt áo ra đi mong được đổi đời.
Số phận run rủi, ông gặp và cưới cô vợ thuộc diện
HO, được nhà vợ bảo lãnh sang Mỹ định cư. Từ lúc
đặt chân qua bên kia bờ đại dương, túi bụi công việc
mưu sinh, ông chưa một lần trở lại. Chiều ba mươi Tết
cổ truyền năm đó, ông bàn với vợ làm mâm cỗ cúng
ông bà. Người vợ thắc mắc: “Mình ở xa xôi quá, ông
bà có biết không?”. Ông trả lời: “Ông bà ở trong
lòng, xa mấy cũng không đáng kể”. Vợ ông nghe cũng
xuôi tai, đồng thuận cùng ông lo việc hiếu nghĩa. Bà
vốn hiền hậu, hết lòng yêu thương, chăm lo cho chồng
con. Ông lập bàn thờ, bày biện hoa quả, lễ vật, thắp
đèn, đốt hương khấn vái rồi xì xụp lạy. Cúng xong,
ông bảo thằng con trai đứng sau lưng: “Con cúng đi!”.
Nó bỗng hỏi bằng tiếng Việt, giọng lơ lớ: “Sao phải
làm vậy?”. “Cúng ông bà đó con”, ông đáp. Thằng
con chưa hiểu: “Cúng ông bà là gì? Lâu nay sao không thấy
ba cúng?”. Ông cứng miệng, không biết phải giải thích
thế nào. Thằng con không biết phong tục thờ cúng tổ
tiên của người Việt, cũng chẳng có ý niệm gì về quê
hương bản quán. Nó sinh ra ở Mỹ, đã trở thành người
Mỹ. Còn ông, cũng dần đánh mất đi nguồn cội. Ngần
ấy năm sống nơi đất lạ, xứ người, hình ảnh quê
cha đất tổ ngày càng thêm nhợt nhạt...
Con
người ta khi đến tuổi xế chiều, quỹ thời gian trên
cõi đời còn ít ỏi thì thường sống nhiều với quá
khứ. Ông Sầm cũng thế. Mấy năm gần đây, ông thường
ngẫm nghĩ, đau đáu nhớ về quê hương. Cha mẹ mất sớm.
Ở quê, chỉ còn người anh ruột. Người anh tên Tầm,
giáo viên dạy tiểu học sắp về hưu. Có lần, qua điện
thoại, ông Tầm nói: “Chú đi lâu quá rồi, nên sắp xếp
về thăm quê một chuyến. Giờ còn mạnh chân mạnh tay đi
được, chứ khi tuổi già xồng xộc đến, sống chết
không biết lúc nào, rủi nhắm mắt xuôi tay mà anh em
không được thấy mặt nhau thì ân hận lắm”. Lời ông
Tầm cũng là điều luôn quằn quặn trong ông. Mảnh đất
nơi mình sinh ra, lớn lên bây giờ như thế nào? Phần mộ
ông bà, cha mẹ ra sao? Người thân, bạn cũ ai còn, ai
mất?... Tiện thể, nhờ ông Tầm coi có ai bán lô đất
nào thì mua giùm rồi xây ngôi nhà nhỏ để ông tiện
việc đi về, mai sau tuổi già về ở hẳn, có chết thì
cũng được an nghỉ trên đồng đất quê nhà, không phải
vùi nắm tro cốt nơi đất lạ xứ người.
2
Taxi
dừng lại. Anh tài xế nói: “Đây là đầu thôn. Nhà bác
ở chỗ nào, cháu lái xe tới tận nơi”. Ông Sầm trả
lời: “Tôi xuống đây được rồi”. Bước xuống xe,
ông bồi hồi xúc động nhìn quanh. Cảnh vật lạ lẫm,
không giống những gì ông mường tượng. Con đường nhựa
dài hun hút, hàng cột điện nối tiếp bên lề, đường
dây điện chi chít kéo vào tận các xóm nhà xa. Chỗ ông
đứng, hai bên đường nhà cửa san sát. Ba mươi năm
trước, đây còn là con đường đất lởm chởm ổ gà,
buổi tối thắp đèn dầu, đêm nào không trăng, đất
trời tối mịt, buồn như trấu cắn. Ông định phôn cho
ông Tầm ra đón nhưng chợt nhìn cái quán cà phê vườn
chếch bên kia đường. Quán bài trí khá bắt mắt, những
chậu cây cảnh lúp xúp dọc theo lối đi. "Vào quán
thư giản một lúc đã, vội gì?". Tự dưng ông muốn
được ở một mình để tận hưởng cái cảm giác khi
được đặt chân lên đồng đất quê nhà. Nhét điện
thoại vào túi quần, ông xách va li bước vào, chọn cái
bàn trống bên hòn non bộ. Phía dưới là hồ cá, những
con cá cảnh vàng, đỏ nhởn nhơ bơi lội. Cô phục vụ
tiến lại đưa menu cho ông chọn: bia, rượu, cà phê, nước
có ga, nhiều cái tên bằng tiếng Tây, Tàu lạ hoắc. Ông
dò tìm rồi gọi: “Một chai trà xanh”. Cô phục vụ đi
về phía quầy bán. Lát sau, cô ta quay lại, tay bưng cái
khay đặt lên bàn. Trên khay là chai trà và ly đá. Ông rót
nước trà vào ly, chưa kịp bưng lên uống thì chợt nghe
một tràng cười rằng rặc. Quay về phía đó, ông thấy
một cảnh tượng hết sức chướng mắt. Một nhóm choai
choai mặt mũi câng câng, bụi bặm, tóc nhuộm vàng, đỏ.
Chúng ăn mặc rất dị hợm. Con trai có thằng mặc áo
thun ba lỗ như cố ý khoe những hình xăm quái gỡ vằn
vện khắp mình mẩy đến tận khuỷu tay. Mấy đứa con
gái thì ăn mặc hở hang, có đứa cổ áo pull trễ xuống
lộ bộ ngực trần ngồn ngộn, quần soọc bó háng, chân
gác lên ghế phô đùi múp míp, nõn nà như khiêu khích.
Bắt gặp cái nhìn tò mò, lạ lẫm của ông, thằng ra
dáng cầm đầu có vẻ khó chịu, mắt lườm lườm, miệng
văng tục, đưa tay ra hiệu cho một con trong bọn. Con kia
hiểu ý liền nhổm dậy, ngúng nguẩy bước tới bàn ông,
tự nhiên kéo ghế ngồi, giọng chả chớt: “Thế nào
ông anh! Trông bộ dạng biết ngay ở nơi khác tới. Tìm
của lạ phải không? Thích thì đây chiều. Miễn chi đẹp
là được”. Đám kia quăng về phía ông những tiếng hú
hét xen lẫn tiếng cười rú điên dại. Những âm thanh từ
miệng chúng nghe như tiếng gầm gào của loài thú. Ông
giận tím mặt, không biết phải nói thế nào, đứng phắt
dậy đi tới chỗ quầy bán tính tiền rồi bước nhanh ra
khỏi quán.
3
Sau
buổi tiệc nhỏ mừng họp mặt gia đình, ông Tầm trải
chiếu ra đầu hè, hai anh em ngồi trò chuyện. Ông kể cho
người anh nghe chuyện xảy ra lúc chiều. Kể xong, ông bực
tức nói: “Em không ngờ đám trẻ ấy lại hỗn láo đến
thế”. Ông Tầm nhỏ nhẹ “Chú thấy khó chịu chứ dân
mình ở đây quen rồi. Chúng nó nhan nhản ra đấy, không
nghề nghiệp, lớn lên như cây cỏ dại, kết thành băng
nhóm, ăn chơi đua đòi, sống lông ngông buông thả. Va
chạm với ai, dù chuyện nhỏ rức, chúng liền quấy rối
gây lắm điều phiền phức. Tránh voi chẳng xấu mặt
nào, muốn bình an thì quên chuyện đó đi, đừng dây dưa
với chúng làm gì”. Ông Sầm thở dài. Ngày trước, thời
tuổi trẻ của ông và các bạn, tuy thiếu thốn đủ bề,
nhưng sống rất đúng mực, lễ nghĩa, kính trên nhường
dưới, có đâu như thế này…
Ở
được ít hôm, một buổi sáng, có tiếng léo xéo làm ông
Sầm thức giấc, nhìn đồng hồ, gần 7 giờ. Bên kia
đường, một người đàn ông tuổi trên 60, chõ miệng
qua nhà hàng xóm cạnh hàng rào mà chửi. Đó là ông Tự.
“Chuyện gì vậy?”, ông hỏi. Ông Tầm kể: “Vườn
nhà ông Tự với vườn bên cạnh có chung một hàng rào
chè quẹo quọ. Người hàng xóm tháo đi, xây gạch, kéo
lưới cho thẳng thóm, sạch sẽ. Ai ngờ, ông Tự làm ầm
lên, la lối cho là xây lấn sang phần đất nhà ông rồi
làm đơn kiện. Chính quyền tới xem xét, đo đạc, hòa
giải. Vẫn chưa tới đâu. Không ai chịu ai. Rồi cứ cách
vài hôm là hai bên gây sự chửi bới đinh tai nhức óc”.
Nghe xong, ông Sầm kêu lên: “Có vậy mà nỡ làm mất
tình nghĩa xóm làng sao? Hồi trước ông Tự sống tốt
với bà con xóm giềng lắm, đâu đến nỗi thế”. Giọng
ông Tầm ngao ngán: “Chú không biết đó thôi, từ lúc
con đường đất nhỏ hẹp nâng cấp mở rộng thành con
đường nhựa rộng rãi, thuận lợi việc kinh doanh, đất
mặt đường trở nên có giá. Đồng tiền làm mất hết
đạo lí nghĩa tình. Con cháu tranh chấp từ đường ông
bà, chia chác đem bán kiếm tiền. Anh em ruột vì hơn thua
vài tấc đất mà xách dao rượt nhau”... Ông Tầm kể
thêm chuyện này, chuyện nọ ở quê. Nhiều chuyện không
vui. Bức tranh quê càng thêm thẫm màu. Vết nhăn trên vầng
trán người thầy giáo già một đời gắn bó với quê
hằn thêm sâu hoắm.
Với
những gì đã nghe, đã thấy trong mấy ngày qua, niềm háo
hức theo ông suốt các chặng đường về dần dà nguội
lạnh. Một phần đời ở xứ người, nhiều lúc, đi trên
phố toàn người Tây, tiếng nói khác, màu da khác, cảnh
vật khác, ông thấy lạc lõng giữa bốn bề xa lạ. Khi
ấy, ông buồn vô hạn, thèm đến mức cháy lòng được
nghe giọng quê ấm áp quen thuộc, ao ước được gặp một
người cùng quê để chia sẻ dù chỉ một lời. Vậy mà,
mấy ngày ở quê, ông lại thấy buồn thêm bởi những
lời nói thô thiển chối tai như xói vào lòng. Cảnh vật
làng quê trước mắt ông giờ xám ngắt như cái chân trời
ảm đạm vào những ngày sắp mưa bão. Ông rầu rĩ lấy
tờ thị thực trong va li ra kẹp trong cuốn sổ tay để
trên bàn. Có lẽ ngày mai ông làm thủ tục về Mỹ sớm
hơn dự định. Anh ông nhắc chuyện hôm trước nhờ mua
đất cất nhà, ông lưỡng lự: “Để từ từ em tính
đã”.
4
Đêm
hôm đó, ông định ngủ sớm nhưng cứ trằn trọc không
sao chợp mắt. Trong người bức rứt khó chịu, ông nhổm
dậy, xuống giường, lò dò mở cửa bước ra sân. Từ
lúc nào, vầng trăng mười sáu treo lừng lững giữa những
tầng mây bạc. Trong không gian êm ả sáng vàng ánh trăng,
văng vẳng tiếng đàn tranh. Tiếng đàn theo gió vọng lại,
mỗi lúc một rõ, trong trẻo, dìu dặt, như mơ, như thực,
như từ nơi nào trong tiềm thức vọng về, cồn cào, nôn
nao. Nghe tiếng đàn, ông ngỡ ngàng như gặp lại một cái
gì gần gũi, êm dịu trong kí ức... Rồi như chợt nhớ
ra, ông thảng thốt kêu lên: “Huyền Như! Đúng là Huyền
Như rồi! Tiếng đàn là của Huyền Như!”. ... Ba mươi
năm trước, Huyền Như với đôi mắt đẹp long lanh, cử
chỉ dịu dàng và tiếng đàn tranh réo rắt đã làm ông
mê đắm. Huyền Như học sau ông hai lớp, nhà ở xóm
dưới. Hồi ấy, ông thường đến nhà Huyền Như nghe
nàng chơi đàn. Lòng ông rộn rã mỗi khi Huyền Như ngồi
vào đàn, trước mặt nàng là cây đàn xinh xinh đặt trên
cái giá. Ông còn nhớ rõ, mặt đàn bằng gỗ ngô đồng
màu vàng nhạt, trên mặt đàn, các con nhạn xinh xinh bằng
gỗ trắc chạm khắc tinh xảo đỡ dây đàn. Hai đầu đàn
cẩn xà cừ óng ánh. Huyền Như mỉm cười, bàn tay mềm
mại uyền chuyển rung nhấn như đang múa trên phím đàn,
nét mặt thanh thoát, rạng ngời. Tiếng đàn Huyền Như
thật tuyệt, những thanh âm luyến láy, mượt mà, êm ngọt
rưng rưng, khi lơi, khi nhặt, lúc vời vợi buồn thương;
lúc mênh mang trầm lắng… Thật không có gì thích thú
bằng ngồi trên cái sân nhỏ cùng với những người dân
quê lam lũ yêu đàn thả hồn theo những giai điệu du
dương trầm bổng. Hồi đó, ông và Huyền Như rất thân
thiết. Có lần nàng kể: “Ngón đàn là bảo vật gia
truyền của gia đình em, có từ lâu lắm rồi, từ lúc cụ
Tổ đến đây lập nghiệp. Cụ là nhạc công kinh thành,
gặp thời loạn phải bỏ xứ phiêu bạt. Ngón đàn được
truyền lại cho con cháu từ đời này đến đời khác,
không để mai một”. Thuở ấy, ông thường tự hỏi
lòng, ông yêu Huyền Như hay yêu tiếng đàn của nàng hơn?
Thật không phân biệt rạch ròi được. Có lẽ vì cả
hai đều có sức quyến rũ lạ. Như đã thành lệ, Huyền
Như chỉ chơi đàn mỗi tháng một lần vào đêm trăng
mười sáu. Lúc đó, dù bận đến đâu ông vẫn sắp xếp
đến nghe đàn như một đam mê không cưỡng lại được,
và cứ âm thầm thổn thức cõi lòng. Ông còn nhớ rõ,
một lần, nghe nàng chơi đàn xong, ông và nàng ra ngồi
trên ghế xích đu dưới giàn hoa giấy tâm sự. Trong giây
phút lặng yên bất chợt, ông nghe rõ nhịp tim mình rộn
ràng. Lúc đó, ông muốn thổ lộ tình yêu với nàng.
Nhưng có cái gì cứ vướng nơi cổ họng... Chỉ vì Huyền
Như con nhà giàu, là đóa hoa kiêu sa, bao kẻ đón đưa,
những kẻ bảnh bao, sang trọng, khinh khỉnh, cười nói tự
tin... Còn ông thì chỉ có hai bàn tay trắng, tương lai mịt
mù. Mặc cảm thua thiệt, sĩ diện, tự ái làm ông không
thể mở lời để rồi cứ dằn vặt khổ đau cả thời
trai trẻ... Đó cũng là lí do ngày ấy ông phẫn chí ra
đi. Cứ ngỡ ông không bao giờ quên được Huyền Như và
tiếng đàn tranh của nàng. Nào ngờ, dòng đời như cơn
lốc cuốn ông xa mãi, chơi vơi, ngụp lặn nơi phồn hoa
đô hội, bận bịu với cuộc sống bon chen, những toan
tính tầm thường, vụn vặt, Huyền Như và tiếng đàn
ngày ấy đã bị chìm lấp trong một góc tối cõi lòng
ông.
Ba
mươi năm. Vẫn tiếng đàn tranh xưa! Vẫn
đêm trăng mười sáu huyền ảo! Vẫn có cái gì thôi thúc
ông bước về phía tiếng đàn như bị thôi miên. Những
câu hỏi bám riết lấy ông. Huyền Như vẫn còn ở ngôi
nhà đấy sao? Vẫn chơi đàn như thuở nào sao? Liệu Huyền
Như có nhận ra ông không? Ông sẽ nói gì đây? Càng đến
gần, ông càng hồi hộp như chàng trai trẻ lần đầu
tiên tới nơi hẹn hò. Tiếng đàn đột ngột im bặt. Chỉ
còn nghe tiếng chân ông đều đều trong con hẻm nhỏ. Rẽ
trái. Cái cổng vôi cũ kĩ. Ông đi qua cổng, bước vào
cái sân gạch phẳng phiu một cách tự nhiên như người
quen. Lố nhố bóng người ngồi trên những chiếc ghế
tựa kê giữa sân chăm chú nhìn về “sân khấu”. Thực
ra “sân khấu” chỉ là cái góc sân nhỏ, mấy chậu
cây cảnh bài trí chung quanh điểm tô thêm những nét
duyên xinh xắn. Một cô gái đang ngồi bên đàn, chăm chú
so dây thử tiếng. Nhìn gương mặt cô gái, ông sững sờ
như không tin vào mắt mình nữa. Đó là Huyền Như!
Đôi mắt đẹp long
lanh, mái tóc mềm buông trên vai, dáng ngồi thanh thoát,
cây đàn tranh đặt trên cái giá, hai đầu đàn, những
nét cẩn xà cừ lấp lánh...
Nhưng… Sao có thể như vậy được? Đó là Huyền Như
của 30 năm trước sao? Đây là ảo giác? Là giấc mơ? Bởi
cô gái xinh đẹp, trẻ trung kia không thể nào là Huyền
Như! Cô gái ấy là ai? Có quan hệ như thế nào với Huyền
Như? Ông đảo mắt tìm, không thấy Huyền Như đâu. Ông
định bụng chốc nữa sẽ tìm hiểu rõ ngọn ngành. Thấy
chiếc ghế trống ở hàng cuối cùng, ông lặng lẽ ngồi
vào. Mấy người chung quanh gật đầu chào thân thiện,
không ai hỏi điều gì, có lẽ họ đang tập trung sự chú
ý vào cô gái chơi đàn. Chừng như đã so dây xong, cô lại
tiếp tục chơi. Một giai điệu trỗi lên. “Khúc Nam
Ai!”, ông reo thầm. Đây là khúc nhạc Huyền Như yêu
thích nhất. Ngày ấy, ông đã nghe Huyền
Như đàn không biết bao nhiêu lần khúc
nhạc này. Khúc nhạc cụ Tổ mang từ kinh thành Huế vào
truyền lại cho con cháu. Cô gái đàn khúc Nam Ai hay quá,
người cô rung lên theo tiếng nhạc. Tiếng đàn mang tâm
trạng của kẻ xa xứ cô
đơn vời vợi và nỗi lòng
nhớ quê
da diết không nguôi. Cái tình quê,
tình người cứ mênh mang ru người vào nỗi buồn man mác.
Khúc Nam Ai kết thúc, tiếng
đàn chuyển sang khúc “Dạ
Cổ Hoài Lang”, khúc nhạc là nỗi
u hoài của người thiếu phụ phương Nam tiễn chồng ra
trận. Cô gái hát một đoạn theo tiếng đàn nghe
càng nẫu ruột:
"Từ là từ phu tướng. Báu kiếm
sắc phong lên đàn. Vào ra luống trông tin chàng. Năm canh
mơ màng. Em luống trông tin chàng. Ôi gan vàng quặn đau…".
Ông rưng rức, nghẹn ngào. Những
cung bậc âm
thanh đã chạm vào cảm xúc dồn
nén tận sâu thẳm trong lòng ông.
Dòng xúc
cảm tuôn
trào mạnh mẽ không kìm
hãm được, vỡ òa thành muôn ngàn
con sóng dập dồn. Ông ngồi im như tê dại, như mê mẩn
trong tiếng đàn, như sợ những rung động
thiết tha ngọt ngào đó sẽ tan biến đi mất. Tiếng đàn
càng lúc càng khắc khoải như đưa ông về miền kí ức
với bao nhiêu kỉ niệm lưu luyến, buồn thương, nhớ
tiếc, ngậm ngùi... Cô gái vẫn mê mải chơi đàn như
không để ý mọi thứ chung quanh. Ông ngồi nghe cho tới
khi kết thúc rồi lẳng lặng ra về. Ý nghĩ ban nãy muốn
tìm hiểu về Huyền Như, về cô gái chơi đàn cũng không
còn nữa. Để làm gì?
Hãy để quá khứ đẹp ấy chìm
vào tĩnh lặng. Bởi lúc này ông thấy người lâng lâng,
phới phới, tràn ngập niềm vui như vừa tìm được một
vật thân thuộc quí giá tưởng chừng đã mất. Thì ra,
những gì đẹp nhất, tinh túy nhất của quê hương vẫn
còn nguyên vẹn
như
tiếng đàn tranh từ bao đời nay và những người dân quê
lam lũ vẫn tới ngồi lặng im dưới trăng thưởng thức.
Mặc cho năm tháng qua đi, mặc cho bao nhiêu biến đổi
không ngừng trên mảnh
đất này, ngón đàn của người
nhạc công xưa từ đất kinh thành đến đây lập nghiệp
vẫn sống mãi trong lòng người với những giai điệu
thấm đẫm tình quê. Ông
đã hiểu ra, ở nơi chôn nhau cắt
rốn vẫn còn bao nhiêu điều tốt đẹp, thiêng liêng,
đang ẩn khuất đâu đó, có khi náu mình trên cành cây
ngọn cỏ; có khi e ấp sau ánh mắt, nụ cười; có khi
thấp thoáng trong từng ý nghĩ, tình cảm… Và sẽ bất
chợt hiện ra lấp lánh, tinh khôi. Đây mới là giá trị
vĩnh hằng của quê hương. Cảm giác bực bội mấy ngày
qua đã tan biến hết. Những mảng màu xám ngắt, ảm đạm
trên bức tranh quê chỉ là lớp bụi bặm nhất thời, chỉ
cần một trận mưa đầu mùa giội rửa, sẽ trở lại
sáng trong.
5
Về
tới nhà, ông bước êm vào phòng, khép nhẹ cửa. Rồi
bật điện. Căn phòng sáng choang. Đập ngay vào mắt ông
là tờ thị thực kẹp trong cuốn sổ tay để sẵn trên
bàn. Ông mở
va li, cầm tờ thị thực quẳng
vào ngăn chứa mấy thứ giấy tờ linh tinh rồi gập nắp
lại.
P.H.H
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét