
Nguyễn Thị Mây
Đông
tàn đã từ lâu lắm. Thế nhưng cái rét vẫn còn ẩn nấp
đâu đây, phả hơi lạnh mơn man, khiến cho chợ chiều
vốn buồn càng thêm áo não.
Bà
Ngâu trùm vội chiếc khăn rằn lên đầu, giấu hai bàn
tay vào trong áo, tìm chút hơi ấm trong lớp vải bạc màu.
Mấy con cá lóc thỉnh thoảng quẫy đuôi đành đạch
trong thau. Nước bắn tung tóe, ném mùi tanh vào không khí.
Một ít nước bẩn bám vào quần áo bà như muốn rải “hương đồng nội". Cô gái bán rau ngồi cạnh quay mặt
đi. Bà Ngâu biết cô khó chịu vì mùi tanh. Cặp chân mày
rậm nhíu lại, rúm ró. Cái mũi to bè chum chum trên đôi
môi dầy bĩu ra, khinh khỉnh. Bà Ngâu thầm nghĩ “Rõ
chán! Tự làm cho mình xấu đi!”.
Hiểu
ý bà, cô gái đổ quạu xẵng giọng:
Bà
Ngâu nói xeo:
Cô
gái sa sầm nét mặt, nhưng chẳng có cớ gì bắt lỗi bà
Ngâu. Cô nín lặng giây lâu, chẳng hiểu sao, cô bưng
thúng rau đến khoảng trống gần chân cầu rồi ngồi
xuống.
Bà
Ngâu chợt cảm thấy trái tim mình se sắt, nhoi nhói trong
lòng ngực. Nụ cười ác ý của bà biến mất. Nỗi đau
cũ tưởng đã ngủ yên chợt thức dậy trong lòng bà,
buôn buốt làm sao! Mới đó mà đã hơn hai mươi năm.
Thời gian khá dài đủ để thân xác chồng bà mục rữa
dưới đáy mồ, đủ để khổ đau vẽ hoàn chỉnh những
nếp nhăn ngoằn ngoèo trên khuôn mặt bà, đủ để hoàn
cảnh sống đổi thay. Nhưng thời gian không xóa tan hình
ảnh quá khứ, cảnh chồng bà nằm chết sóng soài trên
vũng máu ở bên đường, dưới dốc cầu Tầm Phương,
ngay chỗ cô gái bán rau vừa ngồi xuống.
Ngày
xưa, ông Hai La, chồng bà cũng bán tại đó. Ông bán
thuốc đủ loại: tây, tàu, ta lộn xộn. Tất cả những
gói thuốc tán, những viên cao đơn, hàng tá vĩ thuốc bọc
đường đều được đựng trong một cái túi xách, do
chính tay chồng bà tự may lấy. Nó có rất nhiều ngăn.
Mỗi ngăn, chồng bà đựng một loại thuốc. Tùy theo công
dụng của nó, ông cho vào một cái bọc ni-lông rồi buộc
cẩn thận bằng một sợi dây thun. Nhờ vậy, khi cần,
tìm thấy dễ dàng.
Chiều
chiều, khi mặt trời chênh chếch phía tây, chồng bà mang
cái túi thuốc đặt lên cái yên sau xe, ràng dây cẩn thận
rồi đạp xe ra chợ Tầm Phương. Chợ nhỏ nhưng được
nhiều người chú ý vì vẻ riêng biệt của nó. Chợ nhóm
vào buổi chiều, trên khoảng đất không lớn lắm, ở
một bên dốc cầu. Ngoài cá, tép, rau sống, còn có vài
gian hàng bán tạp hóa, vải, dăm ba gánh nước lèo, một
sạp hủ tiếu, mấy quán cà phê và một “xe thuốc”
của ông Hai La, chồng bà. Tên thật của ông là Nguyễn
Văn Hai nhưng không ai để ý đến cái họ mà lại đệm
thêm chữ La đằng sau tên gọi để phân biệt với những
ông Hai khác. Không như mọi người, bạn hàng ngồi chờ
khách tới gần mới mời mọc, ông Hai la om sòm suốt buổi
bán, thỉnh thoảng mới ngừng lại ăn hoặc uống.
Ông
đứng cạnh chiếc xe đạp, mở toang miệng túi xách, để
lộ lỉnh kỉnh thuốc. Ông còn lấy một xâu thuốc đã
được kết dính vào nhau như một cái chuỗi đeo vòng
quanh cổ. Thoạt trông như choàng vòng “hoa thuốc”. Tay
trái ông hay nâng… vòng thuốc, tay phải huơ huơ trước
mặt, miệng… la: "Ai có con bị đau ban, ghẻ lở, còi
xương, sán sơ mít, kiết lỵ, tiêu chảy, nhức đầu… ghé
lại đây… mua thuốc” hoặc “Cảm nắng, cảm sương,
thương hàn… thuốc nào cũng có, mua vô, mua vô…”. Có
hôm, trái gió, trở trời, ông bị ốm thì bạn hàng trong
chợ chỉ còn nghe ông… la ngắn ngủn: "Ai bệnh… mau…
mua…thuốc”. Có người cắc cớ hỏi:
Ông
gân cổ:
Hai
La mỉm cười dễ dãi:
Thật
ra, chồng bà không hề sợ cụt vốn. Ông đi bán như
người ta đi… chơi. Ông muốn thoát ra khỏi nhà, tránh
mặt bà để không phải cự nự lôi thôi. Bởi lẽ, ông
không thích cờ bạc, nhất là gầy sòng tại nhà. Ông
thường bảo rằng không chịu nổi giọng lưỡi của mấy
bà bạn bà. Họ cười hi hi, hỉ hỉ nghe bực làm sao. Họ
toàn là những người đàn bà chỉ biết hưởng thụ.
Không nghĩ tới ai ngoài bản thân. Đôi khi bà Ngâu cũng
bị lương tâm cắn rứt. Bà tự hứa sẽ lo chăm sóc
chồng con, làm công việc nhà. Nhưng lúc mấy bà bạn kéo
tới thì bà không sao cưỡng lại được. Bà thả sức cờ
bạc, bỏ mặc ông lo nấu nướng, giặt giũ, vun vén vườn
rau, ao cá… và bán thuốc.
Bà
biết tiền lời bán thuốc của ông không đủ cho bà chơi
vài ván bài tứ sắc, chưa kể gặp bữa có người nghèo
khổ bị bệnh tới khóc lóc, ông cho thuốc không lấy một
đồng. Lâu lâu còn đạp xe tìm tận nhà xem bệnh, cho
thuốc như ông lang.
Mặc
cho bà phản đối, ông vẫn làm theo ý mình. Điều gì ông
cũng chìu theo bà, trừ chuyện làm phước. Ông đã nói
thẳng vào mặt bà rằng: "Ừ, tôi vậy đó! Thấy người
khổ, tôi không thể làm ngơ được. Chừng nào tôi lấy
tiền của bà để bố thí thì bà nói. Đàng nầy… Bà cứ
lộn xộn, coi chừng tôi!”. Nổi nóng, bà giãy đong đỏng:
Tưởng
ông sẽ quýnh quáng, bà biết ông rất quí bà. Ông đã
từng thì thầm bên tai bà: "Tôi thương bà còn hơn
thương tôi nữa”. Nhưng lần ấy, ông không cản, để
cho bà thu xếp quần áo. Lỡ bộ, bà đành phải tới nhà
bạn bè ở tạm. Chưa hết một ngày đã cảm thấy buồn
bực, ê chề bởi những cái nguýt, hấy, lườm của mấy
người nhà bạn. Chịu không nổi, bà lại giả bộ nhớ
con, quay về nhà. Ông hiểu nhưng làm ngơ và bà biết rõ
nếu khôn, đừng có ý kiến gì về chuyện “cho thuốc" của ông.
Dù
vậy, bà vẫn cho rằng chồng mình là một người ngu.
Vườn tược rộng thênh thang, ao cá không nhỏ. Tới mùa
cứ hái trái đem ra chợ bán. Năm nào chẳng dư ra vài chỉ
vàng. Tội gì lặn lội ngoài chợ không biết. Đã vậy
còn la bài hãi như mắc thằng Lữ Bố. Kiếm giỏi lắm
hai chục ngàn. Hôm nào gặp người nghèo thì… lỗ vốn.
Như người nghiện. Ông ăn cơm trưa xong, dỗ hai đứa
nhỏ ngủ rồi dắt xe ra cổng, đến chợ. Dường như ánh
nắng chiều chợ Tầm Phương mới chính là thức ăn nuôi
sống ông. Thiếu nó, ông chết.
Nhưng,
cuộc đời lắm nỗi bất ngờ. Ông Hai La chồng bà chết
ngay chỗ đứng bán thuốc. Người ta kể lại rằng ông
đang rao sang sảng: "Ai mua thuốc Tây, thuốc Tàu, thuốc
ta… ghé lại đây nè”. Bỗng, một chiếc xe "jeep"
từ trên cầu đâm sầm xuống như lạc tay lái. Mọi người
kinh hãi té chạy, tránh né. Phải chi ông ném chiếc xe
đạp, phóng mình đi thì may ra kịp lúc. Đàng này, ông
lôi chiếc xe theo. Người ta chỉ nghe được một tiếng
“rầm” rợn người xen lẫn tiếng rú của ông. Mọi
người chỉ còn cách nhìn theo chiếc xe cán ngang người
ông Hai rồi còn trờ tới trước một đoạn ngắn. Chồng
bà chết ngay tại chỗ. Hay tin, bà chạy ra chợ thì chỉ
còn thấy xác chồng nằm sóng xoài trên vũng máu. Những
viên thuốc bọc đường bị nhuộm máu chồng bà, văng
tung tóe. Đúng lúc đó, tên sĩ quan định chuồn thẳng
nhưng người hàng xóm với bà là Ba Thà chạy tới, kêu
lên: "Không được bỏ đi, không được bỏ đi!”. Bà
cũng nhào đến bấu tay hắn, gào lên: "Đền mạng
chồng tao, đền mạng…”.Tên sĩ quan rút súng ngắn,
chĩa vào Ba Thà, miệng thét: "Muốn làm loạn hả, đúng
là… Việt cộng rồi!”.
Mọi
người nhao nhao cãi:
Hắn
quay lại, chĩa súng về phía họ khiến ai cũng sợ, nín
bặt! Hắn thản nhiên leo lên xe, Ba Thà tức tối, chạy
tới, gã vô lương đã nổ súng. Viên đạn đã cắm vào
vai Thà. Anh ngã xuống, người ta té chạy, còn tên vô
lương mở máy, cho xe phóng đi. Bây giờ, bà mới nhớ ra
là quên xem số xe của hắn. Mà dù có để ý đi nữa bà
biết làm sao đây.
Cũng
may là viên đạn chỉ xuyên qua phần mềm nên vết thương
của Ba Thà cũng mau lành. Nhưng người dân quê hiền lành
được chứng kiến cảnh bất công, vô lý, anh nhận ra
một điều: muốn sống còn phải đấu tranh chống áp
bức. Ba Thà từ giã vợ con và gia đình bà rồi xung vào
du kích, trở thành người của cách mạng thật sự.
Bà
Ngâu chợt cảm nhận được sự hy sinh âm thầm của
chồng bà, một người có chân trong tổ chức cách mạng.
Ông đã chuyển chẳng biết cơ man nào mà kể những lọ
thuốc tây, tàu… ra vùng giải phóng. Vì vậy cái chết
của ông đã gieo nỗi hoài nghi vào lòng bà và mọi người.
Phải chăng là một cuộc mưu sát? Trước đây, bà chỉ
lo cờ bạc, sống dựa vào chồng. Đến lúc ông nằm
xuống, bà chẳng biết ra sao nữa. Bà cứ bán dần bán
mòn ruộng vườn rồi đồ đạc trong nhà. Đến lúc không
còn gì quí, bà mới sáng mắt, phải nhìn nhận: "Phải
làm mới có ăn. Trông cậy vào may rủi thì thật là dại
dột”. Từ đó, bà bắt đầu những ngày đổ mồ hôi,
sôi nước mắt để có tiền nuôi con. Giữa lúc khó khăn
tột cùng thì đất nước được giải phóng.
Hòa
bình, Ba Thà trở về. Anh nhớ ơn chồng bà đã giúp đỡ
gia đình anh khi xưa nên tìm cách trả ơn. Ba Thà hướng
dẫn bà đến sở TBXH khai báo và ông Hai được công
nhận là liệt sĩ. Người ta cấp ruộng đất cho bà cày
cấy, đưa hai đứa con bà trở lại trường học và còn
cho vay vốn để chăn nuôi. Nhờ vậy, ao cá trong vườn
nhà được phục hồi. Cuộc sống bà đã ổn định.
Cũng
như chồng, bây giờ bà trở nên nghiện chợ chiều Tầm
Phương. Ngày nào bà cũng mang không vật này thứ nọ ra
chợ bán. Chẳng có ai mong đợi gì ở bà, cần bà tiếp
tế. Nhưng chợ chiều ở đây gắn bó với bà tự bao
giờ. Không đến, lòng bà không yên.
Chợ
chiều Tầm Phương, đó là nơi chồng bà đã ngã xuống,
là nơi ghi nhận sự hi sinh của một người cách mạng.
Đó là nơi để bà sám hối, nghiền ngẫm về lối sống
vô vị ích kỷ, vô tâm của mình khi xưa. Và, đó cũng là
nơi bà tự đày đọa, trừng phạt mình trong những ngày
xế bóng.
N.T.M (Trà Vinh)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét