Minh họa: P.V
Ông
Tá tháo chiếc chân giả để vệ sinh mỏm cụt bằng nước
ấm. Công việc này diễn ra suốt mấy chục năm trời,
từng động tác vỗ về da thịt thành thạo và nhẹ
nhàng. Cảm giác trống vắng của thịt da thường được
thấy rõ nhất mỗi khi có gió thổi qua. Mà ở xứ này
không có gì trù phú bằng gió. Mỏm cụt ấy tưởng đã
chai lại vì thời gian vậy mà gió vẫn khua khoắng đầy
hẫng hụt. Thằng Cò sẵn cầm thanh khời bếp trên tay
chạy lại gõ lộp cộp vào chiếc chân giả được tháo
rời đặt ngay dưới đất. Nó hỏi:
- Một
bên chân ông để ở nơi nào ạ?
- À… ông
gửi lại nhờ Trường Sơn giữ hộ.
- Vậy
Trường Sơn có xa lắm không ông?
Xa
chứ. Xa bằng chiều dài ký ức của một người lính già
từng đi qua nhiều trận chiến. Nơi mà ông chưa một lần
đủ can đảm nghĩ đến chuyện trở lại. Sợ những cơn
đau cũ ùa về, trái tim già nua này làm sao chịu nổi. Khi
mà những người đồng đội từng vào sinh ra tử đều
đã hóa mây trời. Người ta chỉ nhìn thấy những vết
thương hiện hữu trên cơ thể. Thấy vết dấu của chiến
tranh mỗi khi ông chống gậy tập tễnh đi ngang qua ngõ.
Thế nào họ cũng hất mặt bảo nhau kìa ông Tá cụt. Đôi
lúc gặp mấy bà bạo mồm, họ còn tếu cụt đến gần
háng thế kia liệu có “làm ăn” được gì không nhỉ?
Được chứ sao không, vẫn ngon lành cành đào chán. Rồi
véo nhau cười rinh rích. Hoặc có vài lần thấy ông vấp
váp ngã chỏng chơ giữa đường, loay hoay tìm mọi cách
đứng lên thì người ta tặc lưỡi than “khổ thân ông
cụt”. Người ta đâu có nhìn thấy những vết thương
không rõ hình hài trong lồng ngực, trong trí óc của người
lính như ông. Mà ông cũng không bao giờ để lộ ra ngoài.
Không than vãn về chiến tranh. Không rên rỉ về nỗi đau
thân thể. Tất cả đã qua. Phải, nên để nó qua như
những người xung quanh vẫn nghĩ. Hàng ngày ông quanh quẩn
với cửa hàng tạp hóa chăm sóc mấy sào hoa trên cánh
đồng bên kia đường làng. Hoa chủ yếu để bán cho bà
con trong làng khi có đám cưới hỏi và thắp hương ngày
rằm, mồng một. Giá toàn hữu nghị cả, ai đến mua cũng
có cái cớ để bớt giá cho đến khi không thể bớt
thêm. Không họ hàng gần thì họ hàng xa, hết bạn của
mình đến bạn của con cháu. Thấy người ta lam lũ cũng
bớt. Thấy người ta nâng niu hoa cũng bớt. Thành ra có
lắm vụ trồng hoa chỉ lỗ. Mùa nào hoa ấy nhưng ông vẫn
thích trồng hoa hồng nhất.
Quán
tạp hóa trông rất lành phành. Con cái đã bao lần định
xây dựng kiên cố nhưng ông không chịu. Ông bảo ở nhà
lá tường đất cho mát mà toàn mì tôm, nước mắm, xà
phòng thì lo gì mất cắp mà phải cửa khóa then cài. Quán
mở suốt ngày nhưng có khi không thấy người đâu. Khách
đến gọi cả chục câu mới thấy một tiếng “ơi”
vẳng ra từ cánh đồng hoa bên kia đường. Khách nghĩ ôi
chao, chân chống nạng như thế kia thì đi lại nhiều làm
chi cho khổ. Thôi thì mua gì cứ lấy, tiền để ở bàn
uống nước, đặt cái chén lên cho gió khỏi bay. Có khi
ông đi vắng cả ngày, thằng Cò mải chạy chơi chẳng để
ý gì đến quán. Nhưng tối về sẽ thấy hàng vơi đi một
ít, trên bàn những đồng lẻ được vuốt thẳng thớm
đặt chồng lên nhau ngay ngắn. Cũng có khi mất mát vài
món đồ đấy chứ, chuyện thường thôi mà. Ông không
kêu vì sợ con cháu tiếc của lại tính chuyện xây quán.
Mà ông thì yêu cái quán lá này lắm. Nó giống những căn
lều thời chiến. Chỉ cần phủ lên ít lá ngụy trang,
mắc võng nằm nghe gió luồn, nghe tiếng chim lảnh lót.
Những
buổi trưa ở làng bình yên đến mức nghe được cả
tiếng muỗi vo ve. Trưa nắng mọi người đều đã đóng
cửa nghỉ ngơi. Ngoài đường không có người đi lại,
chỉ thỉnh thoảng bật lên một tiếng ho khan giữa không
trung. Làng quê thời bình giống như khoảng thời gian yên
ắng hiếm hoi và đáng sợ trong cuộc chiến. Có những
hôm núi rừng lặng thinh, cảm giác như không gian đặc
quánh, một tiếng chim cũng chẳng thể lọt xuống. Ông và
đồng đội xua cảm giác bất an bằng những cuộc chuyện
trò. Thằng Hùng công tử luôn nói về những bữa cơm. Nó
liệt kê một loạt món ăn do mẹ nấu, mà thằng ấy kể
sao mà khéo thế. Cảm giác như từng ngôn từ đều biến
thành hương vị nghi ngút khói. Bánh tro màu hổ phách,
chấm với mật mía, cắn một miếng là vị ngọt thanh
mát tan dần trên đầu lưỡi. Món thịt bò kho, chao ôi
nghe nó kể mà nước miếng cứ tứa ra. Thằng nào cũng
ao ước giá được một bát cơm trắng với dăm miếng
thịt bò thì ngay mai ra trận chết dưới đạn bom cũng
chẳng nuối tiếc gì. Trước đợt bom kinh hoàng vào giữa
trưa hôm ấy thằng Hùng còn nói, đêm nào cũng mơ thấy
mẹ và nồi cá kho thơm mùi tương. Cá kho bằng nồi đất,
đun bếp củi đến khi thịt cá cứng chắc lại thì “ăn
quên đời”. Nó hứa khi nào kết thúc chiến tranh sẽ
dẫn cả bọn về nhà, thưởng thức hết tất cả những
món ngon mẹ nấu. Thể nào mẹ vui lắm, khuôn mặt phúc
hậu cười không ngớt. Trong bữa cơm mẹ sẽ ăn rất ít
mà ngồi gắp hết đứa này đến đứa kia. “Ồ, đừng
tưởng mẹ tớ bếp núc suốt ngày mà đầu bù tóc rối.
Nói cho mấy cậu biết là mẹ tớ đẹp mê hồn. Lam lũ
nhưng quần áo lúc nào cũng thẳng thớm. mái tóc mẹ thì…
chao ôi đen và mượt”.
Thằng
Hải nằm trên võng, một chân buông xuống đất khẽ đung
đưa. Nó bảo bao giờ toàn thắng sẽ trở về đi tìm cô
gái làng bên. Cái cô gái gặp lần đầu trong đêm diễn
văn nghệ. Có lần cô ấy bảo thích nhất hoa hồng mà
khổ nỗi bói cả làng cũng chẳng thấy hoa hồng. “Chiến
tranh mà, nơm nớp lo tránh đạn bom, lo cái ăn cái mặc đã
kiệt sức người thì còn ai nghĩ đến việc trồng hoa”.
Hải kể trước lúc nhập ngũ kiếm được mảnh vải lụa
đỏ, tính học cách cuốn thành hoa hồng tặng nàng mà
chưa kịp làm thì nhận lệnh lên đường. Nói rồi Hải
rút ở túi áo ngực ra một mảnh vải lụa đưa lên mũi
hít hà. Đúng lúc ấy thì máy bay địch từ đâu kéo đến,
nhanh một cách ngỡ ngàng. Tất cả vội vàng về vị trí
chiến đấu nhưng chưa đầy vài phút sau chỗ đóng quân
của đơn vị tan hoang dưới bom đạn Mỹ. Ông may mắn
thoát chết, trước khi ngất lịm đi còn kịp nhìn thấy
mảnh vải đỏ tươi bay lên như một cánh chim bị thương
giữa trời dông gió. Bay mãi, bay mãi cho đến khi ông
không còn biết được gì. Suốt gần năm mươi năm qua,
mảnh vải đỏ vẫn bay xao xác trước mặt ông. Bay xuyên
qua giấc mơ, bay đến những buổi chiều hoàng hôn màu
huyết dụ. Bay cho đến khi ông chạm vào những cánh hoa
hồng đỏ. “Hải ơi, hãy mang những bông hoa này đi tìm
cô gái mà cậu từng thầm thương trộm nhớ”. Nước
mắt ông đã nhiều lần rơi xuống những cánh hoa. Vì
thương những người đồng đội nằm xuống khi tuổi mới
hai mươi. Còn chưa kịp đặt lên môi người mình yêu một
nụ hôn cháy bỏng. Lúc đi còn ngại ngùng chưa dám ôm mẹ
một cái. Không còn cơ hội ăn thêm một bữa cơm mẹ
nấu. Có đứa ước ao được trở về để cùng mẹ nuôi
những đứa em. Và sự sống của ông bỗng trở thành ích
kỷ.
Thỉnh
thoảng ngồi ăn cơm cổ ông bỗng nghẹn đắng. Thương
những người bạn nằm lại chiến trường, lẫn trong đất
và màu lá Trường Sơn. Tất cả chỉ còn lại một tờ
giấy báo tử đến tay người thân và ký ức xót lại
trong những người đang sống. Năm nào ông cũng chọn đúng
ngày mình bị thương làm giỗ cho đồng đội. Nấu một
nồi cơm trắng, canh cá nấu chua và không quên nồi cá
kho tương cho bạn. Trên bàn thờ lúc nào cũng có thêm một
lọ hoa hồng. Cúng giỗ đó mà không biết đồng đội có
về được không. Hay chỉ mình ông ngồi nhằn xương cá
mà đầm đìa nước mắt. Hải ơi, Hùng ơi, Tính, Thụy,
Trọng ơi… Đồng đội ông sẽ sống mãi với tuổi hai
mươi. Những tiếng cười ha ha vang cả khắp núi rừng.
Và sẽ nói về tình yêu trẻ trung, sôi nổi. Chỉ có ông
là già nua đến từng ý. Sau này gặp lại có khi chúng nó
không nhận ra ông là thằng Tá năm xưa, cái thằng đêm
nào ngủ cũng ngáy vang khắp lán. Chúng nó sẽ nhào vào
vạch lưng ông xem có cái sẹo dài bằng hai đốt tay
không. Rồi bắt phải đọc thử biệt danh của từng
thằng rồi mới chấp nhận. Chúng sẽ sờ mỏm chân cụt
và bảo “chúng tớ vẫn còn giữ hộ cậu một bên
chân”. Rồi sẽ cười ha ha.
Thằng
Cò bảo:
- Khi
nào ông vào Trường Sơn nhớ cho cháu đi cùng. Cháu sẽ
giúp ông tìm một bên chân còn lại.
- Ồ,
thật thế à. Ông cảm ơn cháu nhé.
Khẽ
xoa đầu thằng cháu ông bật cười ha ha. Thằng nhỏ 5
tuổi cứ tưởng chân ông cũng như cái má lúm đồng tiền
của nó. Mỗi lần trêu Cò, ông thường đưa tay bấu má
nó và bảo “mất má lúm rồi”. Thằng nhỏ sẽ khóc
toáng lên cho đến khi ông chạm tay vào má nó và bảo
“trả má lúm”. Nên giờ nó nghĩ sự mất mát của ông
cũng chỉ là tạm bợ. Cái hồn nhiên của con trẻ gợi
cho ông về sự hồn nhiên của những người lính trẻ
đôi mươi. Nếu mất mát được nghĩ theo cách đó chắc
sẽ nhẹ nhàng hơn. Những người nằm xuống có thể đã
quên chiến tranh. Vậy mà người may mắn còn sống như
ông sao cứ ám ảnh mãi về cuộc chiến. Hoa hồng không
dành cho súng đạn, chẳng phải nó chính là ước vọng
của hòa bình và tình yêu đó hay sao. Nếu những người
đồng đội ấy có cơ hội còn được ngắm nhìn cuộc
đời này chắc họ sẽ lạc quan để sống. Khẽ ngả
lưng đung đưa cánh võng, ông nằm ngoẹo đầu nhìn băng
qua đường làng, ngắm nhìn cánh đồng hoa hồng đang trổ
nụ. Ông nhắm mắt để mặc từng cơn gió đùa nghịch
xung quanh. Ông thấy mình đang nằm võng giữa rừng Trường
Sơn, đồng đội đang ngồi quây xung quanh. Họ đánh đàn
và hát say mê bài “Thời hoa đỏ”. Khi những câu ca
cuối cùng vang lên:“Mỗi mùa hoa đỏ
về hoa như mưa rơi rơi/ Sau bài hát rồi em lặng im, cái
lặng im rực màu hoa đỏ/ Sau bài hát rồi em như thế em
của thời hoa đỏ ngày xưa/ Sau bài hát rồi anh cũng thế/
Anh của thời trai trẻ ngày xưa”… (*) thì
ông thấy trên trời cả ngàn cánh hoa hồng rơi xuống như
thảm lụa.
V.T.H.T (Hà Nội)
(*) Ca khúc Thời hoa đỏ, thơ Thanh Tùng, nhạc Nguyễn Đình Bảng
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét