Nguyễn Thị Mây
Anh
phụ xế vỗ rầm rầm vào hông xe, miệng hét tóe khói:
Tốp, tốp...! Chiếc xe rướn thêm một đỗi rồi dừng
hẳn. Hành khách ngã chúi tới trước, bật ngửa ra sau.
Tiếng cười rộ lên, họ bảo nhau “Tới rồi, xuống
đi!”
Chờ
cho hành khách xuống hết, tôi mới vói lấy túi xách,
thong thả đứng lên. Chân tôi vừa chạm đất, chiếc xe
lao vụt đi. Bây giờ, chỉ còn lại mình tôi đứng chơ
vơ giữa phố huyện. Tôi bồi hồi chưa muốn dời chân.
Đã mấy mươi năm xa cách, cảnh cũ thay đổi đến ngạc
nhiên. Dãy nhà lá lụp xụp đã biến mất. Thay vào đó
san sát những ngôi nhà tường đứng xếp hàng thành hình
chữ U. Cửa ngõ hướng vào chợ. Nắng chiều lấp lóa
trên những tấm sáo kẻ sọc trắng xanh. Phía dưới, hàng
hóa bày la liệt. Dù chợ đã tan, chẳng có người mua
sắm, chủ các quầy hàng vẫn ngồi chồm chồm trên ghế
xếp, nhong nhóng nhìn ra.
Hồi
đó, chợ lưa thưa người. Hàng hóa cũng chẳng được
bao nhiêu. Chợ nhóm khoảng một giờ là tan.Tiếng là chợ
huyện nhưng đấy chỉ là nơi trao đổi hàng hóa của vài
chục hộ sống rải rác đây đó. Tờ mờ sáng, từ các
ngõ ngách chằng chịt, họ đỗ ra chợ. Kẻ bán, người
mua. Loáng cái, hết vèo. Chợ trông giống một bãi đất
trống vương vải rác. Trẻ nhỏ thường tụ tập chơi ô
quan, trốn tìm…Nội chợ, chỉ có quán bánh bèo của bà
ba là đặc biệt nhất. Bà ba cứ bán hoài, bán mãi cho
tới khi nào hết bánh mới dọn. Có hôm đến xế trưa.
Tôi không sao quên được những tấm bánh Bèo trắng phau,
deo dẽo như những cái đĩa tí hon đựng đầy đậu xanh
nghiền nhuyễn. rưới một lớp nước cốt dừa đặc
sánh, béo ngậy, ăn vào ngon không thể tưởng. Ai thích vị
mặn thì cứ bảo, bà ba xúc thêm cho một muỗng nhân tôm,
chan ít nước mắm tỏi ớt. Bây giờ, một quán cà phê
mọc lên ở đó. Bàn ghế đều bằng nhựa, bày chật
ních gian trước. Dăm ba người ngồi há hốc mồm nhìn
lên màn ảnh nhỏ của một cái ti vi màu. Họ đang xem
phim kiếm hiệp Hồng kông. Tiếng vũ khí chạm nhau loảng
xoảng. Tiếng cát chạy, đá bay ầm ào. Tiếng thét rùng
rợn của diễn viên… Tất cả trộn lẫn vào nhau, làm
cho một góc chợ chiều trở nên nhộn nhạo.
Qua
khỏi phố chợ là cánh đồng bát ngát. Men theo đường
đất quanh co, khúc khuỷu, tôi đến đầu làng. Tôi ngỡ
ngàng nhìn nhà cửa mọc lên chi chít, Không như ngày xưa,
nhà nọ cách nhà kia một mảnh vườn, vuông sân hay một
con lạch nhỏ. Ban đêm, những ngọn đèn dầu leo lét ẩn
hiện, chập chờn như những đốm lửa ma.
Vật
còn tồn tại với thời gian là cây đa và tấm bia đình
làng. Nhưng năm tháng đã phủ một lớp bụi cằn cỗi
lên cây đa cổ thụ. Nó già rũ như một ngôi nhà cổ lợp
lá xanh mông mốc. Tấm bia đá đứng gần đó xám xịt,
trơ trọi. Những hàng chữ đã phai màu. Lớp rêu xanh rì
bám dầy đặc quanh khung như một đường viền vừa được
tô màu. Giữa sân đình một dãy lớp học đứng chắn
ngang. Cái đình làng biến đi đâu mất? Chợt trông thấy
một người đàn ông tóc hoa râm, đang ngồi ở bậc thềm
trước một lớp lọc, tôi liền tới gần:
-
Ông anh này, cái đình đâu rồi?
Ông
ta nhìn tôi từ đầu xuống chân, rồi từ chân lên đầu,
cuối cùng dừng lại ở cái túi xách. Ông ta gật gù:
-
À, ở đâu mới lên đây hả?
-
Dạ, ở thành phố Hồ Chí Minh.
-
Ờ, “Sài Gòn” đó chớ gì! Hèn gì không biết cái đình
bị kẹt đàng sau dãy lớp học.
Nghe
giọng nói chắc hẳn phải là dân rặc ri ở đây, tôi
mừng rỡ hỏi tới:
-
Ủa, sao kì vậy anh? Tôi nhớ hồi đó đâu có dãy lớp
học nầy. Hết chỗ xây trường rồi sao mà…?
Anh
ta quơ tay một vòng, vẻ tức tối:
-
Ờ, nghĩ cũng kì thiệt.. Nhưng đận ấy vừa mới giải
phóng. Cha nào cha nấy sợ tàng lan, tùm lum, tầm bậy, tầm
bạ. Cho là cái đình nầy thờ quan lại thời xưa. Phong
kiến quá xá, đâu dược! Mà dẹp cái đình thì sợ ông
thần bẻ cổ, vặn tay. Phần sợ dân chúng chửi. Bàn bạc
mấy ngày, trưởng làng tìm ra một cách là giấu cái
đình, tức là cái phong kiến ra đằng sau dãy lớp học.
Vậy đó, xúm lại đóng góp, xây liền một dãy phòng án
ngữ cái đình.
-
Trời đất! Rồi làm sao vô cúng đình?
-
Đi vòng.
Anh
ta chỉ một lối đi nhỏ bên hông lớp học. Thấy anh cởi
mở, tôi hỏi:
-
Điệu nầy, nếu mời gánh hát tới thì diễn ở đâu ?
-
Thì diễn ở đây. Sân khấu dựng trước cửa mấy lớp
học nè. Dân làng ai tới trước ngồi trong vòng rào. Ai
chậm chân thì đứng ngoài lộ ngó vô.
-
Ông thần trong kia, hát hò ngoài nầy thì còn nghĩa lý gì
nữa!
Liếc
tôi một cái rõ dài, anh nói:
-
Sao không nghĩa lý cha nội. Cúng thì có xôi, chè, hoa, quả,
gà, vịt. Còn hát hò chủ yếu để phục vụ bà con làng
xóm. Còn như ông thần, nếu ổng muốn xem hát thì đi
vòng ra đây chớ khó khăn gì. Ủa, bộ anh có bà con gì
với ông thần đình làng này sao mà trách móc đủ thứ
vậy anh bạn!
Ngồi
xuống cạnh anh, tôi hưởn đải nói:
-
Tôi là người làng nầy, đi biệt xứ bấy lâu mới quay
về. Nhà tôi ở ven sông, chỗ khúc quanh vào vườn bưởi
đó.
Vỗ
đánh bốp vào vai tôi, anh kêu lên:
-
Té ra là con bác ba Thời, là… Hai Minh, Minh đờn cò! Nhớ
tôi không? Hai Sự nè!
Tôi
chợt nhớ tới người thanh niên khi xưa. Anh hay cởi trần,
mặc độc có cái quần xà lỏn. Hai Sự quê tận Cà Mau,
nơi tiền rừng, bạc bể. Thế mà hai vợ chồng anh chèo
chống về đây lập nghiệp. Họ sống trôi nổi trên
sông. Cứ bìm bịp kêu nước lớn, chiếc ghe trở về.
Nước ròng lại tháo lui theo triều nước. Người vợ
quảy gánh hàng tạp nhạp như tiêu, tỏi, hành, ớt, đường
đậu, hột vịt… lên chợ huyện bán. Tan chợ, về thổi
cơm trên bến. Ăn xong, vợ chồng chui vào trong cái mui
ghe, đánh một giấc đến xế. Những hôm bán ế, họ
phải neo ghe lại. Đêm, người chồng mò ra sân đình, tắp
vào quán hớt tóc, nhập bọn với những người đàn ca
tài tử để nghe đàn hát đến khuya. Thuở đó, ở đây
ai cũng phục ngón đờn cò của tôi. Mỗi lần tôi se dây
tiếng đàn như một bàn tay mỹ nhân ve vuốt cõi lòng
người nghe, họ cảm thấy buồn da diết như đắm chìm
trong nỗi khoắc khoải, nhớ tiếc xa xăm.
Tôi
còn nhớ, ngày đó thật là khủng khiếp. Giặc mở trận
càn quét lớn. Một tốp lính ập vào làng bắn phá. Giữa
lúc đang họp chợ, mọi người kinh hoàng bỏ chạy tán
loạn. Vợ Hai Sự bụng mang dạ chửa gần ngày sinh, lệt
bệt quá, chạy không kịp, bị trúng đạn chết tại chỗ,
nằm vắt ngang quang gánh. Đứa nhỏ trong bụng vẫn còn
chòi đạp. Trong lúc mọi người luýnh quýnh tìm cách cứu
đứa nhỏ, đem nó ra khỏi bụng mẹ thì pháo địch bỗng
đập ì đùng tới tấp. lại một phen chạy bán sống bán
chết. Chừng tiếng súng im, tôi chạy về nhà, bàng hoàng
trước cảnh nhà tan, cửa nát. Mẹ và em gái tôi cũng bị
trúng đạn pháo, chết tự bao giờ. Đó là một ngày thê
thảm nhất của làng tôi. Nhà nào cũng có người chết.
Tiếng khóc than dậy trời. Tôi không biết nhờ vào sức
lực nào mà tôi đã lo xong mồ mã cho mẹ và em gái, Tôi
chỉ nhớ rằng sau đó tôi bị sốt mấy ngày liền. Nhờ
láng giềng giúp đỡ, lo thang thuốc tôi khỏe lại. Rồi
vì buồn không chịu được, tôi khóa cửa, gởi nhà cửa,
vườn tược nhờ người anh họ trông chừng rồi tìm
ra vùng giải phóng xung phong vào đội văn công. Chúng tôi
phục vụ những đơn vị trực tiếp kháng chiến. Bộ đội
đánh tới đâu, chúng tôi theo tới đó. Chúng tôi dùng
lời ca tiếng nhạc tiếp sức cho bộ đội ta đánh giặc.
Tôi học sử dụng một số nhạc cụ khác như đàn tranh,
đàn bầu…
Hòa
bình, tôi được mời gia nhập đoàn biểu diễn nhạc cụ
dân tộc và được tham gia nhiều đợt giao lưu văn hóa
với nước ngoài. Chúng tôi được người ngoại quốc
hoan nghênh nhiệt liệt. Mới đây, tôi đuợc phong tặng
nghệ sĩ ưu tú.
Hôm
nay, trở lại làng xưa, trước thực trạng nầy, lòng tôi
như bị ai cào xé. Tôi dò ý người bạn cũ:
-
Anh có muốn đình ra đình, trường ra trường không?
-
Muốn chớ sao không. Chính quyền có bàn bạc sẽ xây
trường chỗ khác rồi cho trùng tu đình làng nhưng hiện
giờ chưa có đất, tiền cũng chưa đủ. Không biết đến
bao giờ mới xong!
Tôi
chợt nhớ ruộng vườn nhà mình thênh thang. Vợ con tôi
người thành phố, không biết cày cấy nên tôi phải nhờ
người anh bà con đứng ra cho láng giềng thuê đất làm
ruộng hay trồng rẫy. Lâu lâu, anh ấy mang tiền lên cho
chúng tôi. Tôi chợt nghĩ tại sao mình không hiến bớt
hai công đất cho chính quyền xây trường học chứ. Tôi
nói liền ý nghĩ ấy cho anh Hai Sự nghe, anh vỗ vai tôi
cười ha hả “Tốt quá! Tốt quá! Đúng là khó trăm lần
dân liệu cũng xong . Tôi kết anh rồi nghen anh Hai Minh!”
Tôi
đứng lên, mỉm cười:
-
Bây giờ, tôi phải về nhà anh họ. Tối nay, anh có rảnh
ghé chơi!
Tôi
rẽ vào con đường nhỏ dọc bờ sông. Nắng đã tắt lâu
rồi. Nước đang lên, sóng nhấp nhô. Xa xa, thấp thoáng
những cánh chim màu nâu, ức đỏ như chứa lửa. Ôi!
Thương làm sao loài chim gọi nước về. Tôi xiết chặt
cái túi xách có cây đàn cò trong đó. Tôi mơ tưởng đến
ngày mai. Cạnh khu vườn nhà tôi mọc lên ngôi trường
mới.
N.T.M (Trà Vinh)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét