Kỳ 20:
L Ư U T R Ọ N G L Ư
Lưu Trọng Lư sinh ngày 19 tháng 6 năm 1911 (Tân Hợi) tại Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, Quảng Bình. Xuất thân từ một gia đình Nho học, ông được gia đình cho đi học ở tỉnh, rồi vào Huế học trường Quốc học, sau đó ra học ở Hà Nội, đi dạy tư kiếm sống. Cha là Lưu Trọng Kiến, rất coi trọng và chăm lo sự học cho các con, cả ba anh em Lưu Trọng Tuấn, Lưu Kỳ Linh và Lưu Trọng Lư đều có năng khiếu văn chương và có tác phẩm để lại cho đời.
Ở độ tuổi đôi mươi, Lưu Trọng Lư rất say mê văn chương, thích làm báo, viết sách và trở thành một trong những nhà thơ tiên phong trong phong trào thơ mới. Khoảng năm 1933, ông chủ xướng mở Ngân Sơn tùng thư ở Huế.
Cách mạng tháng tám thành công, Lưu Trọng Lư tham gia Văn hóa cứu quốc. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp trở lại, ông hoạt động tuyên truyền, văn nghệ ở Bình Trị Thiên và Liên khu 4. Sau 1954, ông làm việc tại Bộ Văn hóa và được cử giữ chức Tổng thư ký Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam. Ba năm sau, ông trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Lưu Trọng Lư thời trẻ
Lưu Trọng Lư mất ngày 10 tháng 8 năm 1991 tại Hà Nội.
Hội Văn học nghệ thuật Quảng Bình đã lấy tên ông đặt cho giải thưởng văn học nghệ thuật 5 năm của tỉnh.
Trong cuộc đời sáng tác, Lưu Trọng Lư đã để lại nhiều tác phẩm giá trị trên văn đàn như thơ có: Tiếng thu (1939), Tỏa sáng đôi bờ (1959), Người con gái sông Gianh, (1966), Từ đất này (197l), Chị em (1973), Đây mùa thu tới (1987), Bâng khuâng (1988), Bao la sầu (1989)… Sân khấu có: Nữ diễn viên miền Nam (cải lương), Cây thanh trà (cải lương), Xuân Vỹ Dạ (kịch nói), Anh Trỗi (kịch nói), Hồng Gấm, tuổi hai mươi (kịch thơ, 1973). Văn xuôi có: Người sơn nhân (truyện, 1933), Chiếc cáng xanh (truyện, 1941), Khói lam chiều (truyện, 194l), Mùa thu lớn (tuỳ bút, hồi ký, 1978), Nửa đêm sực tỉnh (hồi ký, 1989)…
Gia đình Lưu Trọng Lư
Trong thời gian học ở Hà Nội, Lưu Trọng Lư quen với cô nữ sinh Phùng Thị Cúc, cũng từ Huế ra Hà Nội học. Cô Cúc xinh đẹp, là tiểu thư đài các, nổi danh hoa khôi trường Đồng Khánh. Chính “nàng thơ” nầy đã làm rung động trái tim thi sĩ, tạo cảm xúc cho Lưu Trọng Lư viết nên nhiều bài thơ tuyệt tác. Nhất là khi ông đến tá túc trên căn gác của nhà thơ Phạm Hầu, một điều bất ngờ xảy ra, căn gác nầy lại đối diện với căn phòng nhỏ của cô Cúc đang ở trọ. Từ đó, ánh mắt và tình cảm của hai người được nối nhau qua hai ô cửa sổ.
Thơ và mộng đẹp thì còn mãi, nhưng cuộc tình sớm kết thúc khi Phùng Thị Cúc sang Pháp trị bệnh và nàng đã bước sang một bờ bến khác. Mãi đến năm 1975, khi tuổi đã trên dưới lục tuần hai người mới gặp lại nhau, cô Cúc bác sĩ ngày xưa nay đã trở thành nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị.
Mặc dù ai cũng yêu thích và thậm chí thuộc lòng bài thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư với: … Con nai vàng ngơ ngác. Đạp trên lá vàng khô, nhưng tôi xin được giới thiệu bài thơ Một mùa đông mà Lưu Trọng Lư viết trong cuộc tình nói trên với những vần điệu thiết tha, mộc mạc, chân thành nhưng đầy lãng mạn và thổn thức: Tình đôi ta vời vợi. Có nói cũng không cùng…
TRỊNH BỬU HOÀI
Thủ bút Lưu Trọng Lư
MỘT MÙA ĐÔNG
Ðôi mắt em lặng buồn
Nhìn thôi mà chẳng nói,
Tình đôi ta vời vợi
Có nói cũng không cùng.
Yêu hết một mùa đông
Không một lần đã nói,
Nhìn nhau buồn vời vợi
Có nói cũng không cùng.
Trời hết một mùa đông
Gió bên thềm thổi mãi
Qua rồi mùa ân ái,
Ðàn sếu đã sang sông.
Em ngồi trong song cửa
Anh đứng dựa tường hoa
Nhìn nhau mà lệ ứa,
Một ngày một cách xa.
Ðây là dải Ngân Hà
Anh là chim Ô Thước
Sẽ bắc cầu nguyện ước
Một đêm một lần qua.
Ðể mặc anh đau khổ
Ái ân giờ tận số
Khép chặt đôi cánh song!
Khép cả một tấm lòng!
II
Em là gái trong khung cửa
Anh là mây bốn phương trời;
Anh theo cánh gió chơi vơi,
Em vẫn nằm trong nhung lụa.
Em chỉ là người em gái thôi,
Người em sầu mộng của muôn đời,
Tình em như tuyết giăng đầu núi
Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời.
Ai bảo em là giai nhân
Cho đời anh đau khổ?
Ai bảo em ngồi bên cửa sổ
Cho vướng víu nợ thi nhân.
Ai bảo em là giai nhân
Cho lệ tràn đêm xuân?
Cho tình tràn trước ngõ
Cho mộng tràn gối chăn?…
III
Ngày một ngày hai cách biệt nhau
Chẳng được cùng em kê gối sầu
Khóc chuyện thế gian cười ngặt nghẽo
Cùng cười những chuyện thế gian đau.
Ngày hôm tiễn biệt buồn say đắm
Em vẫn đùa nô uống rượu say
Em có biết đâu đời vắng lạnh
Lạnh buồn như ngọn gió heo may.
Môi em đượm sắc mùi nho tươi,
Ðôi má hồng em chúm nụ cười
Ðôi mắt em say màu xán lạn,
Trán em để lỏng làn tóc rơi.
Tuy môi em uống lòng anh say,
Lời em càng nói càng chua cay
Anh muốn van em đừng nói nữa
Lệ buồn sẽ nhỏ trong đêm nay.
IV
Hãy xếp lại muôn vàn ân ái
Ðừng trách nhau, đừng ái ngại nhau
Thuyền yêu không ghé bến sầu
Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng.
Hãy như chiếc sao băng băng mãi
Ðể lòng buồn, buồn mãi không thôi.
LƯU TRỌNG LƯ
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét