NỬA THÁNG MỘT TÁC GIẢ VÀ MỘT BÀI THƠ HAY: HUY THÔNG - Bài giới thiệu của Trịnh Bửu Hoài
Chủ Nhật, 1 tháng 1, 2017
Nhà thơ Huy Thông
Kỳ 24:
(KỈ NIỆM 100 NĂM NGÀY SINH NHÀ THƠ HUY THÔNG, 1916-2016)
H U Y T H Ô N G
Huy Thông tên thật là Phạm Huy Thông, sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại Hà Nội, trong một gia đình kinh doanh giàu có. Quê gốc của họ tộc ông ở làng Đào Xá, Bãi Sậy, Ân Thi, Hưng Yên; hậu duệ của Phạm Ngũ Lão. Cha là Phạm Chân Hưng, chủ tiệm vàng Chân Hưng ở phố Hàng Bạc, chủ nhiệm báo Nông Công Thương, chủ tịch khu Đông Kinh Nghĩa thục…
Thuở nhỏ, Huy Thông đi học ở trường Thầy dòng, trường Albert Sarraut, rồi sau đó là trường Luật. Thời đi học ông lộ rõ trí thông minh và mê thích thơ văn. Năm 16 tuổi ông đã được đọc giả biết đến trong phong trào thơ mới. Ông đăng thơ trên các báo: Phong hóa ngày nay, Đông Dương tạp chí, Tân thiếu niên, Hà Nội báo… Ông học giỏi và có điều kiện để theo đuổi con đường học vấn. Năm 21 tuổi ông đậu cử nhân ngành Luật tại Viện đại học Đông Dương và sang Pháp du học theo chương trình trên đại học. Năm 1942 ông lấy bằng thạc sĩ Sử địa và tiến sĩ Luật tại Pháp. Năm năm sau ông được phong giáo sư và là ủy viên Hội đồng giáo dục tối cao của Pháp.
Nhà thơ Huy Thông hồi trẻ
Năm 1949 ông gia nhập đảng Cộng Sản Pháp, sau đó phụ trách tổ chức Việt kiều hải ngoại, bị Pháp trục xuất về nước năm 1952. Về Sài Gòn, ông tiếp tục hoạt động chính trị, tổ chức đấu tranh đòi hòa bình, bị chánh quyền thực dân đưa đi quản thúc tại Hải Phòng. Khi miền Bắc được giải phóng, ông trở về Hà Nội.
Từ năm 1956 đến năm 1987 Huy Thông kinh qua các chức vụ: Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Viện trưởng Viện khảo cổ học, Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Khoa học lịch sử Việt Nam… Năm 1987 ông được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Cộng hòa dân chủ Đức.
Huy Thông qua đời tại Hà Nội ngày 21 tháng 6 năm 1988.
Huy Thông là một trí thức tài hoa trên nhiều lãnh vực như thi ca, sử học, luật học, khảo cổ học. Bài Tiếng địch sông Ô đã tạo nên tên tuổi ông trên thi đàn. Nhưng sau đó ông nghiêng về nghiên cứu lịch sử cho đến cuối đời, nên tác phẩm ông để lại không nhiều. Các tập thơ, kịch thơ được xuất bản và còn lưu giữ đến ngày nay như: Tiếng sóng (1934), Yêu đương (1934), Tiếng địch sông Ô (1936), Anh Nga (1936), Tần Ngọc (1937)… Có thể nói ông là một trong những người khởi đầu của thể loại kịch thơ của nước ta. Các vở Anh Nga, Tần Hồng Châu, Kinh Kha… là những trang tình sử lãng mạn nhưng đậm chất hùng tráng: Niềm ái ân chưa được biết bao giờ. Ta vừa biết phút giây trong giấc mộng. Mà mộng nọ, than ôi! còn đâu bóng! Ta gục đầu thổn thức nhớ điệu đàn. Và âm thầm tưởng tiếc bóng đêm tan (Anh Nga).
Bà Huy Thông phát biểu tại buổi tọa đàm kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Huy Thông
Huy Thông đến với thơ khá sớm và hồn thơ ông bắt nhịp với thơ mới một cách mênh mông, rộng mở và sung mãn. Bài Tiếng địch sông Ô đã nói lên bút lực của ông khi chưa đầy 20 tuổi và liên tục sau đó là những kịch thơ đồ sộ. Tiếc rằng cuộc đời ông ngoặc sang nhiều lãnh vực khác nên không được trọn đời với thơ. Mà tiếng địch âm thầm trong bóng đêm văng vẳng. Trên Ô giang, đã bặt hẳn tự bao giờ. Những dòng thơ hào sảng ấy trong Tiếng địch sông Ô, bài thơ nổi tiếng nhất của Huy Thông.
TRỊNH BỬU HOÀI
TIẾNG ĐỊCH SÔNG Ô
Hán binh dĩ lược địa,
Tứ diện Sở ca thanh.
Đại vương ý khí tận,
Tiện thiếp hà liêu sinh?
(Ngu Cơ)
Quân Hán lấy hết đất,
Khúc Sở vang bốn bề.
Đại vương chí lớn cạn,
Tiện thiếp sống làm chi?
I
Sở Bá Vương ngồi yên trên mình ngựa,
Giương mắt buồn say ngắm chân trời xa.
Trong sương thu nhẹ đượm ánh dương tà,
Quân Lưu Bang đang tưng bừng hạ trại.
Khói tung bay trên vòm trời rộng rãi
Như muôn sao trong đám tối mơ màng.
Khắp bốn phương, giáo mác tỏa hào quang,
Liên tiếp nhau chen chúc xung quanh ven trời lớn.
Mấy làn trại (lưới xa xôi, mịt mùng và chắc chắn)
Đóng trùng trùng, điệp điệp trên đầu non.
Cờ chư hầu đỏ rực như pha son,
Quằn quại cong trên nền trời lá mạ.
Gió quát bên tai Vương, và rộn rã,
Tiếng quân reo, tiếng ngựa hí, tiếng loa vang,
Theo gió chiều vi vút vẳng đưa sang.
Nhưng, lặng lẽ, bâng khuâng, vua nước Sở,
Như pho tượng đồng, ngồi yên trên lưng ngựa,
Để luồng mắt mênh mang
Như vấn vương, như vơ vẩn trên Ô giang.
Vì Vương rõ, phía sông Ô, binh Phàn Khoái,
Mới hôm trước bị quân mình xô qua ải,
Nên vòng vây chưa kịp khóa trước bình minh.
Vương toan, khi đêm tối, chỉ huy binh,
Chém quân Khoái vừa thua như cắt cỏ,
Phá trùng vi tan tành về hướng đó.
Vương sẽ dàn tướng sĩ bên kia sông,
Họp chư hầu còn trung tín cho thật đông,
Rồi máu Hán rửa lâng lâng hờn Cai Hạ.
Vương sẽ như năm nào đem binh mã
Lại tung hoành trên thế giới mênh mông,
Vương sẽ lại (ôi vinh quang) trong bão lửa vẫy vùng,
Vương sẽ lại tơi bời vung kiếm thép,
Và, đưa tay, giành lại tấm giang sơn,
Vương sẽ lại...
Nhưng bóng đêm đã xoá cảnh hoàng hôn,
Và phương xa, mơ hồ, trăng le lói,
Một trận gió hung hăng đùng đùng nổi,
Vặn mạnh cờ trên nóc trại ngất cao,
Vương khoan thai, buộc lại dải chiến bào,
Rồi xuống ngựa bước vào trong trướng gấm.
II
Trướng thênh thang, lạnh lùng và u ám,
Sở Bá Vương đứng sững trước cửa phòng,
Để nỗi buồn, một nỗi buồn u uất mênh mông,
Ngao ngán nhẽ, nặng đè lòng người chiến sĩ...
Và chống kiếm trước phòng sầu quạnh quẽ,
Hạng Vương vừa nhác thấy bóng Ngu Cơ,
Nên hỡi ôi! Tia hy vọng lờ mờ
Vương cảm thấy trong lòng ngầm ngấm tắt.
Vương trông...
Vẫn như gặp nàng lần thứ nhất,
Tim anh hùng như ngây ngất say sưa.
Tựa thân mềm vào lưng ỷ, nàng Ngu Cơ
Mắt mơ màng nhìn qua khung cửa sổ,
Để hồn buồn chơi vơi như bay trên cành gió.
Chỗ nàng ngồi,
Một luồng trăng biêng biếc riêng soi,
Khiến Hạng Vương, trong lòng say, những tưởng
Rời cung Quảng, ả Hằng vừa bay xuống...
Thấy rèm châu êm ái bỗng cuốn lên,
Nàng bâng khuâng sực tỉnh giấc mơ tiên,
Ngoảnh đầu trông thấy quân vương bên trướng,
Nàng đứng dậy. Rồi cúi chào phu tướng,
Bước lại gần, chàng hé miệng, xót đau,
Rồi ngập ngừng toan nói...
Bỗng âu sầu,
Vẳng bên tai như từng lời thổn thức,
Như suối vắng âm thầm chiều thu khóc,
Địch xa xôi dìu dặt trên Ô giang,
Khúc bi ca não ruột và mơ màng,
Như càng khêu những nỗi sầu tịch mịch,
Như ôm ấp, như nấu nung lòng Hạng Tịch.
Hồn đê mê, Sở chúa vuốt tua rèm,
Say sưa nhìn cặp mắt long lanh đen,
Cặp mắt nồng nàn, mà xa xăm, mà say đắm,
Như chan hoà niềm ái ân đằm thắm,
Cặp mày thanh, êm ái như mây cong,
Như núi xuân lưu luyến hơi xuân phong,
Dưới vầng trán bâng khuâng sẽ dịu dàng uốn nét.
Tóc óng đen, như ao trong dưới bóng đêm mù mịt,
Chập chờn bay theo áng gió heo may,
Và êm buông như sóng cuốn trên lưng gầy.
Trên Ô giang đương mơ hồ dìu dặt,
Trong vùng tối âm u, dần dần tiếng địch... tắt.
Tiếng địch tắt. Nhưng dư âm
Trong sương khuya còn văng vẳng điệu âm thầm.
Nén thương đau, Vương ngậm ngùi sẽ kể
Niềm ngao ngán vô biên như trời bể.
Ôi! Tấm gan bền chặt như Thái Sơn
Bao nhiêu thu cay đắng chẳng hề sờn!
Ôi! Những trận mạc khiến "trời long đất lở"!
Những chiến thắng tưng bừng, những vinh quang rực rỡ!
Ôi! Những võ công oanh liệt chốn sa trường!
Những buổi tung hoành, lăn lộn trong rừng thương!
Những tướng dũng bị đầu văng trước trận...!
Nhưng, than ôi! Vận trời khi đã tận,
Sức "lay thành, nhổ núi" mà làm chi?
Rồi buồn rầu, Vương tỏ cho nàng nghe
Hy vọng cuối cùng trong tim Vương còn sót lại,
Rồi Vương nói:
- "Nhưng đau lòng ta biết mấy!
Ngay đêm nay, ta phải quyết... biệt ái khanh
Thì, nàng ôi, việc lớn mới mong thành.
Nhưng rời nàng, ôi... rời nàng, ta đâu nỡ...?
Mà mang nàng xông pha trong mưa lửa
Trùng vi kia ta thoát khỏi làm sao?"
Giọt châu sa lã chã trên áo bào,
Nàng Ngu Cơ bên mình chàng thổn thức.
Địch Trương Lương như ngậm sầu quyện khóc,
Lại não nùng dìu dặt trên Ô giang.
Trên Ô giang, tiếng địch thiết tha than,
Như tiếng nhạn kêu đêm nơi ven trời vò võ,
Như tiếng nhạn canh khuya thầm nhủ gió
Tự hư vô lại nức nở tiếng mơ màng,
Nàng Ngu Cơ...
Nàng Ngu Cơ, khẳng khái nắm tay chàng:
"Quân vương ơi! Còn đợi chờ chi nữa
Mà đường xa chàng còn chưa ruổi ngựa?
Trống canh hai trong bóng sẫm đổ hồi,
Còn dùng dằng chi nữa, đi đi thôi!
Kìa! Thờ ơ, trăng mờ đang chênh chếch...
Còn ngồi đó mà nghe chi tiếng địch,
Cho chí đầy dần cạn trong tim đau.
Đừng nghe! Đừng nghe nữa! Hãy đi mau!
Nghe làm chi tiếng tre đằng than ai oán,
Khúc bi ca nặng nề và đòi đoạn,
Đầy những lời thương tiếc điệu thê lương.
Quân vương ôi! Mau sửa soạn lên đường,
Lên đường xa nơi mơ màng sương phủ...
Nào đâu trái tim xưa? Nào đâu tâm hồn cũ?
Lãnh truân chuyên xin gắng giữ chí bình sinh,
Khách anh hào chi xá kể nỗi điêu linh,
Ngày gian lao với quãng đường khe khắt?"
Địch Trương Lương trên Ô giang dìu dặt,
Tưởng trời đêm, trăng biếc lạnh lùng than.
Quỳ sát bên, nàng tha thiết tiếng khuyên van
"Đi đi chàng, nơi xa xăm, tiếng địch
Càng não lòng, càng âm u, càng tịch mịch...
Đi đi chàng, còn thân Ngu đâu đáng bận trí quân vương?
Lá lìa cây dù gió xé bên vệ đường,
Dù nắng hun, dù mưa dầm làm tan nát,
Xin quân vương chớ bận lòng vì phận bạc!"
Nhưng lời lời tuy dũng cảm, oai linh,
Trong lòng đau niềm thống khổ vẫn mênh mông,
Cố... nàng cố nén u buồn... nhưng không được,
Và sóng lệ ào tuôn, nàng bưng đầu thổn thức...
Tiếng du hồn trong bóng tối vẫn lang thang,
Vẫn âu sầu dìu dặt phía Ô giang.
Địch âm thầm bên tai đưa văng vẳng,
Đương bâng khuâng trong khoảng trời yên lặng,
Bỗng véo von như chim hót, rồi bỗng ngừng,
Rồi lại nổi... xa xôi, và u uất não nùng.
Gan sắt đá như chơi vơi theo tiếng địch,
Vương thấy tan đâu chí anh hùng vô địch,
Cất tiếng buồn, chàng sẽ nói:
"Ái khanh ơi!
Đành... Vận trời khi đã hết cũng đành thôi!
Không, phi ơi!... Thà cùng phi cùng sống chết
Còn hơn phải... phải trọn đời cách biệt!"
Rồi đỡ cằm, chán nản, Sở Bá Vương
Để cặp mắt im giương
Đuổi bóng những ngày vinh trong âm tối.
Nhưng nàng Ngu lại băn khoăn, tha thiết gọi:
"Thiếp đâu ngờ, Quân vương hỡi, trí trượng phu
Lại không hơn lòng nhi nữ chút nào ư?
Nếu vì thiếp, chỉ than ôi, vì tiện thiếp
Mà chàng quên chí cao cùng sự nghiệp,
Thì thân hèn thà vơ vất dưới tuyền đài
Để, đành lòng, chàng nghĩ đến cuộc tương lai.
Đi đi, chàng, đi đi, phu tướng hỡi!
Ngại ngần chi, và u sầu chi mãi...!
Niềm ái ân xưa, chàng hãy gác một bên lòng
Và, quyết tình lên ngựa, thẳng xa rong!
Quân vương trông, trăng liềm càng phai ánh.
Đi đi thôi!"
Sở Bá Vương, lòng quyết định,
Nhìn Ngu Cơ lần cuối và nghẹn ngào:
"Ta đi đây... nàng ở lại... Dù sao,
Có nhan sắc nhường kia nàng chớ sợ...
Vì nay mai khi Hán binh vào trại Sở,
Ta quyết Bang phải hậu đãi riêng nàng."
Rồi đi ra.
Nhưng trầm trầm bổng bổng trên Ô giang
Địch Trương Lương vẫn vô hình nức nở,
Như non nước tô sương ngùi than thở
Hoà nỗi lòng u uất cõi đêm sâu.
Vương dừng hia đứng lại trước rèm châu,
Rồi, e ấp, ngoảnh nhìn người dưới trướng.
Tiếng than dài vẫn đâu đây bay lưởng vưởng...
Khi nặng nề, khi đắm đuối, khi ngân nga,
Khi mơ hồ, khi êm ả, khi cao xa.
Tiếng địch rung trong cảnh sầu không giới hạn.
Hy vọng gần tàn trong tim Vương như tàn hẳn.
Nhưng bỗng:
- "Buổi gió cuồng xa tống lá vàng bay,
Ta muốn nàng tường lòng son sắt chẳng đổi thay.
Lúc gian nguy cách biệt nàng, ta đâu nỡ!...
Đi! Ta cùng đi! Cùng xông pha trong sóng lửa!
Ta quyết sẽ mang nàng vượt khỏi trùng vi,
Rồi, cùng nhau ta cùng dấn bước lưu ly!
Mà ví bằng Cao Xanh kia không tựa nữa,
Đôi ta, cùng nhau, cùng chôn thây trong da ngựa:
Bên mình phi, dù bỏ mạng cũng cam tâm".
- "Nếu chàng mong còn trở lại đất Hoài Âm.
Nếu chí xưa, chí nghiêng trời lệch đất,
Trong trái tim anh hùng chưa tan nát,
Thì, chàng ơi!
Đường mênh mông chàng vỗ ngựa ra đi thôi.
Bằng vì quyến, vì thương thân hèn mọn,
Mà đễn nỗi chàng đành buông chí lớn,
Tiện thiếp đây xin khuất bóng trước mặt chàng,
Cho chàng đi, đi ngang dọc bước ngang tàng,
Cho phỉ sức cường long nơi hồ hải".
Dứt lời, nàng hăng hái,
Tới bên chàng, cao tuốt lưỡi gươm xanh.
Rồi tự ải.
Vẫn âm thầm trong cõi tối mênh mông,
Địch Trương Lương như ngậm ngùi kể lể,
Nghẹn lời thương chiếc vong hồn quạnh quẽ,
Liều theo mây bạt gởi kiếp lênh đênh!
Như đã dày, đã dạn nỗi điêu linh
Hạng Vũ như không còn biết đau đớn,
Mặt gang thép, nỗi u buồn chẳng gợn,
Chàng nghiêng mình lặng đứng trông người yêu.
Nhưng... hồn bâng khuâng trong cảnh mộng tiêu điều,
Chàng còn cố hình dung đôi mắt sáng,
Đôi mắt sâu xa, và ảo huyền, và xán lạn,
Mà ngàn thu đành tối mãi tự đêm nay.
Nên, tuy nhường... không cảm động mảy may,
Như thản nhiên, như lạnh lùng, như vô giác,
Mà, ngập ngừng trong khoé mắt,
Lần đầu tiên, lệ chiến sĩ long lanh.
Lần đầu tiên, người chiến sĩ đa tình
Để lệ bạc thầm lăn trên gò má.
Trong khi tiếng địch thổi, âm thầm và buồn bã,
Trên Ô giang như khóc lóc nỗi phân ly,
Càng ngày càng réo rắt, càng lâm ly,
Càng âm u, càng mơ màng, càng thảm thiết.
III
Bên mình Ngu Cơ đứng bao lâu, chàng không biết
Nhưng, đến khi, bàng hoàng, chàng lặng lẽ ngẩng trông,
Thì Hán binh đã đông nghịt bên bờ sông,
Và trời cao, than ôi, vừa quyết trắng.
Mà...!
Mà tiếng địch âm thầm trong bóng đêm văng vẳng
Trên Ô giang, đã bặt hẳn tự bao giờ.
1935
HUY THÔNG
Tags:
NỬA THÁNG MỘT TÁC GIẢ VÀ MỘT BÀI THƠ HAY,
TẠP BÚT,
Trịnh Bửu Hoài,
Văn
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét