Muốn cứu mẹ Trần Quang Diệu ra hàng
Quyết theo vua Vũ Văn Dũng bị bắt.
* * *
Nói về Nguyễn Vương ở Phú Xuân nghe tin tướng Tây Sơn là Diệu và Dũng bỏ thành Quy Nhơn theo đường thượng đạo rút quân ra Bắc; lập tức hội bá quan văn võ, Nguyễn Vương nói:
- Một dải giang san của nhà Nguyễn ta từ sông Linh Giang trở vào đã được khôi phục như xưa. Nay ta muốn đắp lại luỹ Trường Dục dùng sông
Linh Giang làm ranh giới không ra Bắc đánh Tây Sơn nữa. Chẳng hay ý các
khanh thế nào?
Đặng Đức Siêu thất kinh bước ra thưa:
- Nay quân ta
khí thế đang hăng, giặc Tây Sơn nghe hơi khiếp đảm chưa đánh đã tan.
Lúc này là lúc ta nên thừa thắng kéo quân ra Bắc diệt giặc. Sao thượng vương lại định dùng sông Linh Giang làm ranh giới mà bỏ mất thời cơ thống nhất sơn hà.
Nguyễn Vương xua tay bảo:
- Ta kéo quân
ra Bắc diệt giặc Tây Sơn rồi Hoàng tộc vua Lê lại đòi đất của họ từ sông Linh Giang ra Bắc thì có phải là ta tốn công vô ích hay chăng?
Đặng Đức Siêu mỉm cười thưa:
- Thần xin hiến một kế khiến cho Hoàng tộc nhà Lê không
thể đòi lại đất Bắc được.
Nguyễn Vương miễn cưỡng hỏi:
- Kế thế nào?
Siêu đáp:
- Thượng Vương hãy lên ngôi Hoàng đế rồi kéo quân ra Bắc đánh giặc Tây Sơn. Vậy là ta đoạt nước trong tay nhà Tây Sơn, và Hoàng tộc nhà Lê thấy thượng vương đã lên làm
vua tất hiểu rằng là ta không có ý diệt Tây Sơn để phò Lê thì làm gì mà dám đòi lại nước.
Mọi người đồng thanh khen:
- Đặng tiên sinh thật là cao kiến. Xin thượng vương hãy lên ngôi
Hoàng đế.
Nguyễn Vương liền xua tay bảo:
- Ta tài sơ đức kém sao dám lên ngôi. Việc này thật không nên.
Siêu lại tâu:
- Thượng vương quy tụ mưu thần, dũng tướng đi đến đâu giặc Tây Sơn tan đến đấy sao bảo là tài sơ? Hiện nay nhân dân khắp trong nước truyền tụng câu hát rằng:
“Lạy trời cho chóng gió Nồm
Cho thuyền chúa Nguyễn giong buồm thẳng ra”
Chứng tỏ bá tánh đều trông về thượng vương thì sao bảo là đức kém? Xin thượng vương trước hãy lên ngôi cho an lòng tướng sĩ rồi đem quân Bắc tiến diệt Tây Sơn.
Bá quan văn võ
đều quỳ xuống đồng thanh tâu:
- Xin thượng vương hãy lên ngôi cho an lòng trăm họ!
Nguyễn Vương nhíu mày suy nghĩ giây lâu rồi bảo:
- Vì sự nghiệp thống nhất đất nước ta đành phải lên ngôi chứ thật lòng không muốn.
Các quan mừng rỡ cùng cúi lạy tung hô vạn tuế.
Tháng Năm, năm
Nhâm tuất (1802) Nguyễn Vương Phúc Ánh lập đàn tế cáo trời đất lên ngôi Hoàng đế lấy đế hiệu là Gia Long đặt tên nước là Việt Nam.
Lên ngôi xong,
vua Gia Long liền truyền lệnh xuất quân ra Bắc đánh Tây Sơn. Đặng Đức Siêu hỏi:
- Xưa nay các bậc thánh nhân khi lên ngôi chí tôn đều mở hội ăn mừng, đại xá thiên hạ. Hoàng thượng mới lên ngôi chưa làm việc ấy sao đã vội xuất chinh?
Vua Gia Long
đáp:
- Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đã bỏ thành Bình Định kéo quân ra Bắc hợp quân với Cảnh Thịnh. Nếu để vua tôi chúng gặp nhau thì thật là bất lợi cho ta. Nên
ta phải lập tức xuất quân chận đường ra Bắc và đón bắt Diệu, Dũng. Trừ được hai người này thì giặc Tây Sơn chưa đánh mà tan vậy.
Siêu lại hỏi:
- Đường thượng đạo là do Trần Quang Diệu theo lối mòn của người thượng đi lại với nhau mà mở ra. Đường này núi non hiểm trở, người thượng lại hết lòng giúp giặc Tây Sơn. Sao ta có thể chặn đường đón bắt Diệu, Dũng được?
Vua Gia Long cười đáp:
- Chính vậy nên ta mới phải lập tức xuất quân. Nếu ta chiếm được nơi này trước thì Diệu, Dũng ắt cùng đường.
Siêu lại hỏi:
- Ấy là nơi nào?
Vua Gia Long kề tai Siêu nói nhỏ. Nghe xong Siêu khen:
- Hoàng thượng liệu việc hơn người. Hạ thần xin bái phục.
Vua Gia Long liền hạ lệnh toàn quân
theo hai đường thủy bộ rầm rộ tiến quân ra Bắc.
* * *
Nói về tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng bỏ thành Quy Nhơn theo đường thượng đạo định rút quân ra Bắc. Diệu thúc quân đi ngày đêm không nghỉ. Dũng bàn với Diệu rằng:
- Đường thượng đạo núi non hiểm trở, quân ta lại mệt mỏi, sao Trần huynh lại hối quân đi gấp thế e rằng quân ta không chịu nổi.
Diệu buồn bã than:
- Tôi vẫn biết vậy, nhưng nếu quân ta đi chậm hơn Nguyễn Phúc Ánh là ta cùng đường đó.
Dũng lo lắng hỏi:
- Thế nào là chậm hơn Nguyễn Phúc Ánh?
Diệu thở dài đáp:
- Đường thượng đạo chỉ ra đến Nghệ An là hết. Nếu Nguyễn Phúc Ánh tiến quân đánh lấy Nghệ An trước là ta không
còn đường ra Bắc. Chính vì vậy mà tôi phải hối quân đi mau lên mới được.
Dũng rầu rĩ bảo:
- Nhưng quân ta vừa mệt vừa đói, vả lại trời đã tối ta nên dừng quân nghỉ ngơi mai hãy đi tiếp.
Diệu lại thở dài nói:
- Tôi e rằng ta đi chậm hơn Nguyễn Phúc Ánh mất. Nhưng đành phải thế mà thôi!
Nói xong Diệu, Dũng lệnh quân hạ trại nghỉ ngơi.
Sáng hôm sau Diệu đến trại Dũng gọi:
- Vũ huynh mau
dậy lên đường mau!
Diệu vừa dứt lời quân vào báo:
- Thưa tướng quân, quân ta đói khát mệt mỏi, tinh thần rã rời thừa đêm tối đã bỏ trốn hơn một nữa.
Dũng bảo quân:
- Ai bỏ trốn thì thôi không truy cứu làm gì. Còn lại lập tức lên đường.
Quân Tây Sơn lại trèo đèo lội suối mà đi cực khổ trăm bề. Đi được một tháng đến vùng rừng núi thuộc đất Thuận Hoá, phía Tây kinh thành Phú Xuân bỗng thấy hai viên nữ tướng từ hướng Bắc cưỡi voi đi đến. Vừa gặp nhau, hai người ấy liền nhảy khỏi bành voi. Một người ôm lấy Diệu khóc kêu lên rằng:
- Phu quân ơi! Phu quân!
Diệu vội hỏi:
- Vua ta đâu,
sao phu nhân lại đến nơi này?
Bùi Thị Xuân gạt nước mắt đáp:
- Nguyễn Phúc Ánh đem binh tiến đánh kinh thành, tôi cố sức chống giữ. Chẳng dè vua bỏ trận mà chạy quân hốt hoảng chạy theo. Kinh thành thất thủ. Tôi và Bùi Thị Cúc đoạn hậu cho vua chạy ra Động Hải với Đặng Xuân Phong. Chị em tôi bị Lê Văn Duyệt vây may mà phá vây thoát được, định theo đường thượng đạo vào Quy Nhơn cùng phu quân
và Vũ tướng quân. Nào
ngờ gặp hai người ở đây…
Ngắt lời Xuân, Diệu hỏi:
- Vậy còn mẹ và con ta thế nào?
Xuân khóc lớn đáp:
- Thiếp vì theo hộ giá Hoàng thượng nên không kịp đem theo mẹ và con. Hiện mẹ và con còn trong thành Phú Xuân không biết sống chết thế nào?
Trần Quang Diệu buông đao ngửa mặt lên trời than:
- Không ngờ bọn ta phải đến lúc nước mất nhà tan thế này!
Vũ Văn Dũng thở dài hỏi:
- Việc đến nước này Trần huynh, Bùi tỷ liệu tính làm sao?
Bùi Thị Xuân đáp:
- Nay ta phải gấp ra Nghệ An. Nếu để Phúc Ánh chiếm mất là ta không còn đường ra Bắc. E đại cuộc hỏng mất!
Nói đoạn ba tướng lại hối quân vượt núi băng rừng lặn lội mà đi. Lần hồi đến vùng rừng núi phía tây
Hà Trung (tỉnh Hà Tĩnh ngày
nay) Trần Quang Diệu bảo:
- Chỉ còn hơn trăm dặm nữa là đến Nghệ An. Ba quân
hãy cố gắng lên.
Diệu vừa dứt lời, bỗng từ trong bụi rậm một tên quân Tây
Sơn chạy ra gào khóc kêu lên rằng:
- Tướng quân ơi! Tướng quân!
Dũng ngạc nhiên hỏi:
- Ngươi là quân nào? Sao lại gào khóc lên như thế?
Tên quân qùy lạy đáp:
- Hạ cấp là quân Hà Trung dưới trướng của tướng quân Đặng Xuân Bảo. Hà Trung thấy tướng quân Đặng Xuân Bảo vì đi đoạn hậu cho vua ta chạy thoát nên chẳng may bị quân Gia Miêu bắt. Tôi phải chạy trốn lên rừng may mà gặp các vị tướng quân ở đây.
Bùi Thị Xuân xen vào hỏi:
- Vậy còn Đặng Xuân Phong trấn thủ đèo Hoành Sơn ở đâu mà quân Gia Miêu có thể tiến đánh Hà Trung
được?
Tên quân đáp:
-
Tướng quân Đặng Xuân Phong trấn thủ đèo Hoành Sơn, hai tướng Gia Miêu là Lê Văn Duyệt và Lê Chất không tiến lên được. Nào ngờ đêm ấy tướng quân Đặng Xuân Phong
lâm bạo bệnh mà mất thình lình nên giặc mới chiếm được ải Hoành Sơn rồi thừa thắng tiến đánh Hà Trung.
Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng nghe xong, đồng thanh thốt lên rằng?
- Thế là trời muốn tiệt nhà Tây Sơn ta rồi!
Đoạn Diệu hỏi:
- Hiện nay quân giặc đã tiến đến đâu rồi?
Tên quân đáp:
- Đã chiếm đất Nghệ An.
Diệu ngửa mặt than rằng:
- Thế là ta đã cùng đường rồi vậy!
Dũng nghiến răng bảo:
- Dù thế nào ta cũng phải tấn công chiếm lại Nghệ An.
Diệu quay sang hỏi tả hữu:
- Quân ta hiện còn được bao nhiêu?
Tả hữu đáp:
- Thưa chỉ còn một vạn.
Diệu ngẫm nghĩ rồi bảo:
- Giặc đã chiếm Nghệ An thì ta
không còn gì để vội vàng nữa. Truyền quân hạ trại nghỉ ngơi rồi ngày mai tiến ra đánh Nghệ An.
Sáng sớm hôm sau quân tín cẩn chạy vào báo cùng Diệu, Dũng:
- Quân ta nghe
giặc chiếm đất Nghệ An hoảng sợ thừa đêm tối bỏ trốn gần hết. Quân sĩ còn lại có hai ngàn
người.
Trần Quang Diệu bảo:
- Truyền lệnh ta lập tức điểm binh.
Quân Tây Sơn tập họp giữa một trảng cỏ tranh. Diệu, Dũng, Xuân thấy quân mình xanh xao gầy ốm, quần áo tả tơi, giáo gươm sứt mẻ thì lòng đau như cắt. Diệu buồn rầu nói:
- Nay Nguyễn Phúc Ánh đã chiếm mất Nghệ An là ta không
còn đường ra Bắc theo vua. Nếu đánh chiếm lại Nghệ An là điều không thể làm được. Ta nỡ đâu đưa các ngươi vào chỗ chết. Vậy nay ta giải tán quân đội, các ngươi hãy tìm đường trốn tránh về quê quán làm ăn và xin các ngươi đừng trách ta làm
tướng mà không bảo toàn được cho quân sĩ.
Nói đến đây Diệu ôm mặt khóc. Bùi Thị Xuân và Vũ Văn Dũng cầm lòng không đậu nức nở khóc theo. Hai
ngàn quân Tây Sơn cùng quỳ xuống khóc lạy nói:
- Xin ba vị tướng quân bảo trọng!
Bỗng một viên tướng già bước ra gạt nước mắt rồi cầm tay Diệu, Dũng nói:
- Hạ tướng theo tướng quân từ lúc hai tiên đế dấy nghĩa ở Tây Sơn, trước lúc chia tay xin có vài lời. Nhị vị tướng quân đem mười vạn binh vào đánh Võ Tánh và Ngô Tùng
Châu chiếm lại thành Quy Nhơn. Đến nay quân lính bỏ trốn chỉ còn có hai ngàn người. Chẳng phải quân ta vì cùng đường sợ chết bỏ tướng quân đi. Mà vì vua ta nhu nhược, hôn muội gần kẻ nịnh thần, làm điều tàn bạo, giết hại tôi trung khiến lòng người ly tán. Nếu chúng tôi liều chết đánh lấy Nghệ An thử hỏi vì chính
nghĩa nào đây? Ấy chính là cái
cơ diệt vong của nhà Tây Sơn ta vậy! Nay tướng quân cho chúng tôi đi, còn ba vị tướng quân liệu tính thế nào?
Diệu ngậm ngùi đáp:
- Bọn ta giả dạng dân thường trốn ra Bắc theo vua tìm
kế khôi phục.
Viên tiểu tướng già nói:
- Đã đến nước này, tôi e dù vua em Quang Trung sống lại cũng phải bó tay. Sao ba vị tướng quân không tìm cách giữ thân?
Dũng trợn mắt quát:
- Bọn ta là đại tướng sống chết với vua với nước. Ngươi mau đi ngay
chớ buông lời gièm xiểm, kẻo ta cho một đao rụng đầu.
Viên tiểu tướng già không hề sợ hãi. Ông ta một lần nữa khóc lạy rồi bịn rịn ra đi. Diệu, Dũng, Xuân còn lại mấy tên quân tín cẩn lại dắt díu nhau lần hồi ra Bắc.
Ngày ấy ba người ra đến Nghệ An. Diệu sai một tên quân đi
do thám địch tình. Hồi lâu quân về hớt hải báo:
- Trần tướng quân ơi! Nguy rồi!
Diệu hỏi:
- Việc gì là nguy?
Quân đáp:
- Khắp thành Nghệ An đều dán cáo thị rằng: Vua Gia Long đã bắt được Trần Mẫu và lệnh ái. Nếu Trần tướng quân và Bùi đô đốc ra hàng, vua Gia Long sẽ tha mạng cho mẹ và con, bằng không sẽ xử tội lăng trì.
Bùi Thị Xuân giật mình nói:
- Không ngờ Nguyễn Phúc Ánh bắt mẹ và con ta để gọi ta ra hàng. Phu quân ơi! Giờ phải liệu thế nào?
Diệu điềm nhiên đáp:
- Vợ chồng ta chỉ còn một cách ra hàng để cứu mẹ và con mà thôi.
Dũng trợn mắt hỏi:
- Trần huynh mong vẹn chữ hiếu, còn chữ trung thì sao?
Diệu buồn rầu đáp:
- Diệu tôi đâu phải kẻ bất trung dù có
theo vua cũng đã sức cùng lực kiệt còn mong gì xoay chuyển đại cuộc. Nên chỉ còn cách ấy mà thôi. Vậy Vũ huynh liệu thế nào?
Dũng tức tối đáp:
- Tôi phải ra Bắc gặp vua mưu việc khôi phục. Dù chết cũng không hàng thằng tiểu nhân Phúc Ánh.
Nói xong Diệu, Dũng ôm nhau mà khóc rồi vĩnh biệt nhau đường ai nấy đi! Vũ Văn
Dũng đi rồi, tuỳ tướng Bùi Thị Cúc nói với Diệu, Xuân rằng:
- Nhị vị chủ tướng có biết rằng ra hàng Phúc
Ánh thì sẽ có kết cuộc thế nào không?
Trần Quang Diệu cười buồn:
- Ta thân làm thượng tướng, là kẻ đại thù của Phúc Ánh, ta đã từng bắt hai chúa Thái
Thượng vương và Tân Chính vương ở cửa Hàm Luông; ta
há chẳng biết rằng nếu lọt vào tay Phúc Ánh chắc chắn sẽ thọ hình thảm khốc sao.
Bùi Thị Cúc ôm lấy Bùi Thị Xuân, nhưng lại hỏi Trần Quang Diệu:
- Thế tướng quân có biết rằng kẻ chiến thắng thường làm gì trước khi đem kẻ thù của mình ra hành hình chăng?
Trần Quang Diệu cười lớn đáp:
- Ta há chẳng biết rằng trước lúc hành hình người chiến thắng thường đem kẻ chiến bại ra làm lễ hiến phù trước thái miếu của họ sao?
Bùi Thị Cúc lại hỏi:
- Tướng quân có biết ý nghĩa của việc làm lễ hiến phù trước thái miếu là gì chăng?
Nghe Bùi Thị Cúc hỏi mãi, Trần quang Diệu bực mình gắt:
- Ta đâu dốt đến nỗi không biết rằng ý nghĩa của việc làm lễ hiến phù trước thái miếu là chịu tội trước linh vị các tiên vương và tông miếu của đối phương… Sao ngươi cứ hỏi mãi thế!
Thấy chồng tỏ vẻ bực dọc, khác với cách hành xử bình thường của ông; Bùi Thị Xuân xen vào giọng nghẹn ngào:
- Phu quân có biết nghi thức của việc làm lễ hiến phù trước thái miếu là gì chăng?
Lần này Trần Quang Diệu cười đến chảy nước mắt:
- Nghi thức làm lễ hiến phù trước thái miếu là bắt buộc phải quỳ. Có khi còn bị bắt buộc phải lạy trước linh vị tiên vương của họ nữa ấy chứ! Ha! Ha! Ha!
Thấy Trần Quang Diệu đã cười, dù cách cười có vẻ khác thường nhưng cũng khiến Bùi Thị Cúc an tâm hơn; nàng xen vào
hỏi:
- Thế chủ tướng đành chấp nhận quỳ trước tên tiểu nhân Phúc Ánh hay sao?
Trần Quang Diệu vụt nín cười hỏi lại rằng:
- Thế hai người có biết hình phạt xử lăng trì là thế nào không?
Thấy Xuân và Cúc cùng hiện rõ sự đau đớn ra nét mặt, Diệu liền lớn giọng nói như thét:
- Xử lăng trì là phải chịu bị lóc từng miếng thịt cho đến chết. Hai người có biết chăng? Nếu ta không ra hàng Phúc Ánh, để nó lóc từng miếng thịt của mẹ ta cho đến chết, thì ta đây thật là kẻ ươn hèn đốn mạt ư?
Ngừng trong giây lát như để nguôi cơn giận, Diệu đau đớn nói tiếp:
- Bị đem ra làm lễ hiến phù trước thái miếu là bắt buộc phải quỳ. Nếu ta không tuân, chúng cũng cho võ sĩ dùng vũ lực ép ta phải quỳ. Lúc ấy chân ta bị xiềng, tay ta bị trói thì ta lại cưỡng được sao? Nếu không vì mẹ ta, thì dù có lỡ sa vào tay giặc ta cũng tự vẫn mà chết đi, chứ đời nào lại chịu ra làm lễ hiến phù trước trước thái miếu (1) của tên tiểu nhân Phúc Ánh. Ý ta đã quyết, chớ có nhiều lời!
Quay sang Bùi Thị Xuân, giọng Trần Quang Diệu rưng rưng:
- Một mình ta ra hàng cũng đủ… Phu nhân và Bùi Thị Cúc hãy tìm đường về Tây Sơn thượng nương náu người Thượng, mai danh ẩn tích sống qua ngày, đừng nghĩ đến việc báo thù và mưu đến việc khôi phục mà khổ lụy chúng
dân.
Chợt nhớ lời của viên tiểu tướng già lúc giải tán quân đội chia tay ở trảng cỏ tranh, Diệu bèn thở dài nhắc lại lời ấy: - Đã đến nước này dù vua em Quang Trung có sống lại cũng không thể nào cứu vãn được đâu!
Bước đến gần lấy vạt áo của mình lau giọt lệ vừa lăn ra từ khóe mắt thâm quầng của chồng, rồi lấy vạc áo ấy lau nước mắt trên má mình, Bùi Thị Xuân cười chua xót:
- Vợ chồng ta là nghĩa Tào Khang, gặp nhau từ lúc Tây Sơn dấy nghĩa, trải hàng trăm trận, sinh tử có nhau. Nay mẹ và con đang bị giặc bắt, chàng ra
hàng hy sinh chịu chết nhục để cứu mẹ; nếu thiếp bỏ mẹ và chồng con để mưu cầu sự sống, thì hóa ra
thiếp lại không bằng loài cầm thú hay sao?
Xuân vừa dứt lời, Bùi Thị Cúc nắm chặt chuôi gươm nói:
- Nhị vị chủ tướng vì chữ hiếu phải ra hàng giặc. Còn tôi chỉ chết vì chủ cớ gì phải chịu nhục.
Nói xong Bùi Thị Cúc rút gươm đâm cổ tự vẫn. Bùi Thị Xuân hét lên hai tiếng: - “Em ơi ” - Rồi ôm thây Cúc khóc thảm thiết.
Chôn Bùi Thị Cúc xong, Xuân bước đến vỗ vào vòi voi một ngà khóc rằng:
- Vợ chồng ta ra hàng giặc nhận lấy cái chết để cứu mẹ già. Vậy ngươi hãy về với rừng sâu núi thẳm đừng quyến luyến làm gì. Tiên
đế mất đi nên nghiệp cả bất thành ấy là do lòng trời vậy. Công của ngươi giúp vua dựng nước hãy còn sử xanh ở đó!
Voi một ngà quỳ xuống chảy hai hàng nước mắt dập đầu lạy Thị Xuân ba lạy rồi rống lên một tiếng vang dội núi rừng. Đoạn voi đứng lên lao đầu vào vách núi
mà chết.
Vợ chồng Diệu, Xuân thương tiếc ôm xác voi một ngà mà khóc sướt mướt. Khóc một hồi cạn khô nước mắt, vợ chồng dắt nhau đi trên lá khô xào xạc rời núi rừng quạnh quẽ, đến thành Nghệ An hàng quân Nguyễn Gia Miêu.
* * *
Nói về tướng Gia Miêu giữ thành Nghệ An là Đặng Trần Thường; bắt được Diệu, Xuân rồi Thường cả mừng bảo quân:
- Mau đem giam
vào đại lao chờ bắt được Vũ Văn Dũng rồi cùng giải về kinh cho vua
ta trị tội.
Phần Vũ Văn Dũng giả dạng dân thường tìm đường ra Bắc. Ngày kia Dũng ghé vào một quán nước bên đường nghe dân chúng trong quán bàn với nhau rằng:
-
Tướng Nguyễn Gia Miêu là Lê Văn Duyệt và Lê Chất đem bộ quân còn Nguyễn Văn Trương đem quân thuỷ tiến đánh Thanh Hoá. Gặp tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Tuyết giữ mặt bộ, Nguyễn Văn Lộc giữ mặt thuỷ nên quân Gia Miêu đánh mãi không được. May thay Nguyễn Văn Lộc bỗng dưng lâm bạo bệnh mà mất đột ngột, vậy mặt thuỷ không còn tướng tài trấn giữ, tất sớm muộn gì quân ta cũng chiếm được Thanh Hoá.
Nghe đến đây Vũ Văn Dũng vùng ngửa mặt lên trời hét lên rằng:
- Ấy thật là trời muốn diệt nhà Tây Sơn ta rồi đó!
Trong đám khách
ở quán có hai người bàn nhỏ với nhau:
-
Người nói câu
vừa rồi ắt phải là tướng Tây Sơn. Ta nên báo quan quân đến bắt mà lãnh thưởng.
Người kia hỏi:
- Vậy nên vào Nghệ An báo cùng quan trấn thủ Đặng Trần Thường chăng?
Người nọ đáp:
- Nơi này giáp Thanh Hoá, tướng Lê Chất và Lê Văn Duyệt đang đóng đại bản doanh đánh nhau với giặc Tây Sơn. Ta đến đấy phi báo sẽ gần hơn.
Nói đoạn chia nhau, người theo dõi Văn Dũng người vội vàng đi báo quan quân.
Nhận được tin báo, Lê Chất hỏi tên dân:
- Người ấy hình dạng thế nào?
Tên dân đáp:
- Người này thân hình cao lớn, mắt xếch, râu quai
nón, trông bộ dạng rất hùng dũng.
Lê Chất giật mình nói:
- Nhân dạng người này giống như Vũ Văn Dũng. Nhưng Vũ Văn Dũng sao lại lưu lạc một mình giả dạng dân thường như thế? Thật là vô lý!
Chất vừa dứt lời, xảy quân vào báo:
-
Trấn thủ Nghệ An là Đặng Trần Thường báo rằng tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân đã ra hàng. Xin tướng quân đón đường bắt Vũ Văn Dũng.
Nghe xong Lê
Văn Duyệt vỗ đùi bảo:
- Vậy người này chính là Vũ Văn Dũng.
Đoạn Duyệt lại giật mình nói:
- Ta nghe Văn
Dũng rất giỏi đánh đại đao đến nỗi thiên hạ thường bảo rằng: “Thắng hổ trên rừng dễ, thắng đao Văn Dũng khó!”.
Vậy ta nên dùng
súng mà bắn nó cho xong.
Nghe vậy Lê Chất liền hỏi tên dân:
- Ngươi có thấy người ấy đem theo vũ khí gì chăng?
Tên dân đáp:
- Không mang
theo binh khí gì cả!
Chất vội vàng quay sang bàn cùng Lê Văn Duyệt:
- Vũ Văn Dũng
tuy có đại đao trong tay
là thiên hạ vô địch. Nhưng nay Dũng không mang theo vũ khí thì có đáng sợ gì. Tướng quân chỉ cần mang theo vài mươi võ sĩ là bắt được Văn Dũng mà thôi.
Lê Văn Duyệt khen phải liền đích thân đem
trăm quân tín cẩn đến quán trọ bắt Vũ Văn Dũng.
Đêm ấy Dũng mệt mỏi ngủ vùi trong quán trọ. Lê Văn Duyệt bí mật dẫn võ sĩ đến tận giường kề gươm vào cổ rồi hô quân trói lại giải đi.Về đến đại bản doanh Lê Văn
Duyệt bảo quân tín cẩn:
- Mau áp giải tên tướng giặc này đến nghệ An, rồi bắt luôn vợ chồng Diệu, Xuân đưa vào Phú Xuân cho vua ta trị tội. Đồng thời bảo Đặng Trần Thường hợp quân Bắc tiến.
Quân vâng lệnh đi ngay. Duyệt lại sai bày yến tiệc cùng Lê Chất uống rượu ăn mừng. Rượu ngà ngà, Duyệt hỏi Chất:
- Nếu tôi sai ông đi bắt Vũ Văn Dũng thì ông sẽ làm thế nào?
Chất đáp sau một tiếng khà:
- Tôi sẽ xin tướng quân để được không đi.
Duyệt cười bảo:
- Biết ý ông thế nên tôi mới đích thân đi bắt Vũ Văn Dũng đó! Ông cũng là một bậc đại trượng phu vậy!
Đoạn Duyệt lại hỏi:
- Hiện ta còn bao nhiêu tên tù binh Tây Sơn?
Chất thẹn thùng đáp:
- Còn năm trăm
tên.
Duyệt bảo:
- Bọn ta mau đến nơi nhốt tù!
Đến trại tù, Duyệt vờ say rượu lớn tiếng với bọn tù binh rằng:
- Ta vừa bắt được Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu và Vũ Văn
Dũng giải về kinh cho vua ta trị tội. Diệu, Xuân, Dũng
chết rồi thì nhà Tây Sơn hết người, vì vậy ta cho bọn bay muốn đi đâu thì đi.
Nói xong Duyệt liền bảo quân thả hết tù binh Tây Sơn. Về trại Lê Chất khen Lê Văn
Duyệt:
- Tướng quân liệu việc hơn người. Năm trăm tù binh được thả này sẽ đánh tan quân
Nguyễn Văn Tuyết ở Thanh Hoá vậy.
Duyệt cười bảo:
- Thật là hiểu tôi không ai bằng ông Chất đó!
Nói rồi vui vẻ nâng cốc cùng Lê Chất.
(Hết chương 67)
(1) Quyển Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim chép: Tháng 7 năm Nhâm Tuất(1802), Thế Tổ (Gia Long) về kinh, đem vua tôi nhà Tây Sơn làm lễ hiến phù ở đền Thái Miếu, rồi đêm ra tận pháp trường xử trị.(Việt Nam sử lược trang 437. Nhà xuất bản VHTT xuất bản năm 1999)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét